thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Một đêm xuân ở Shokoku-ji | Những điều cần biết để là một nhà thơ | Thí dụ | Dưới bảng hiệu Toki
Bản dịch Hoàng Ngọc Biên
 
 
GARY SNYDER
(1930~)
 
Gary [Sherman] Snyder sinh ngày 8.05.1930 tại San Francisco, thuở nhỏ sống ở Washington rồi Portland, Oregon, say mê đọc sách và đã trải qua một thời niên thiếu làm nhiều nghề khác nhau: làm báo, leo núi, làm rừng, đi biển... Năm 1951 ông tốt nghiệp ngành nhân chủng học và văn học ở Reed College, bắt đầu in những bài thơ đầu tiên chứa đựng nhiều kinh nghiệm đi biển, qua các hải cảng cũng như thời gian làm gỗ và gác rừng ở vùng Warm Springs Indian Reservation và Desolation Peak, về sau được gom in trong tập thơ The Back Country. Tại Đại học Indiana ông tiếp tục học ngành nhân chủng, làm quen bước đầu với những tư tưởng nền tảng của Phật giáo, nhất là qua những bài viết của D.T. Suzuki, sống gần gũi với thiên nhiên theo kiểu Đông phương, ngồi Thiền, nhưng sau đó quyết định bỏ trường trở về San Francisco làm... nhà thơ, đồng thời ghi danh ở Đại học Berkeley [1953] học văn hóa và ngôn ngữ phương Đông. Năm 1955 ông sống mấy tháng với Jack Kerouac tại một căn lều ở Mill Valley, và cùng thời gian này ông lui tới Viện Nghiên cứu Á châu của Mỹ, nơi Alan Watts và một số nhà Đông phương học giảng dạy, khởi sự dịch và phổ biến những bài thơ của một ẩn sĩ Trung hoa thế kỷ thứ VIII lấy tên là Hàn Sơn [Riprap & Cold Mountain Poems, 1969]. Mặc dù không có mặt từ thời New York, Snyder được coi là một bổ sung “đồng quê” độc đáo khi những nhà thơ Beat “thành thị” phục hưng ở San Francisco.* Thiền cuốn hút nhiều nhà thơ Beat, nhưng chỉ Snyder là nghiêm chỉnh hành đạo, không những từng sống trong các tu viện ở Shokoku-ji, rồi Daitoku-ji ở Kyoto, mà còn theo thuyết “vạn vật hữu linh” xưa của Nhật Bản, sống hòa đồng giữa thiên nhiên, chặt cây đốn củi, câu cá, và nghiêm chỉnh trong việc học viết và dịch chữ Tàu – cho đến khi từ bỏ ý định đi tu, trở về làm thơ và “quay vòng xe Phật pháp” trên đất Mỹ. Cuối những năm 60 ông cùng người vợ ông cưới trên hòn đảo Nhật Suwanose là Masa Uehara về sống ở Vùng Vịnh San Francisco, và năm 1971, bấy giờ đã có hai con trai, ông đưa gia đình đến làm nhà ở vùng núi Sierra Nevada, bắc California.
 
Những bài thơ ông vào thời kỳ này, khởi sự bằng cảm xúc, ẩn dụ và trữ tình, nội dung dần dần hướng về gia đình, bạn bè và cuộc sống cộng đồng, tình yêu và sự lớn lao của thiên nhiên, và rõ hơn cả có lẽ là cổ vũ “trở về với đất”, nhất là trong vùng đồi núi hoang vu Sierra. Thơ Snyder thường dùng những khuôn mẫu nói chuyện ngày thường, cho dù chủ yếu vẫn uyển chuyển đi qua nhiều hình thức khác nhau, luôn có đặc điểm không tìm kiếm những nhịp thơ và âm tiết theo qui ước, không chọn vần một cách gượng ép.
 
Năm 1985 ông là giáo sư hướng dẫn khoa viết văn ở Davis thuộc Đại học California, rồi trở thành giáo sư danh dự, một thời là thành viên Hội đồng Nghệ thuật bang California, từng tạo ảnh hưởng lớn có thể gọi là lãng mạn nơi cả một thế hệ những tác giả thích viết về Viễn Đông. Ngoài học bổng Guggenheim Fellowship (1968) và Giải Pulitzer trao cho tập Turtle Island năm 1974, Gary Snyder còn nhận được nhiều giải thưởng cao quí như Giải Levinson, Giải American Poetry Society Shelley Memorial (1986), American Academy of Arts and Letters (1987), Giải Bollingen về Thơ 1997, và John Hay Award for Natural Writing 1997. Ông cũng là người Mỹ đầu tiên nhận Giải Buddhism Transmission 1998 của Tổ chức Bukkyo Dendo Kyokai ở Nhật.
 
Ngoài những tập thơ Myths & Texts (1960), Mountains and Rivers Without End (1965), The Back Country (1967), Riprap and Cold Mountain Poems (1969), Regarding Wave (1969), Turtle Island (1974), Axe Handles (1983), Left Out in the Rain (1988), No Nature: New and Selected Poems (1992), Mountains and Rivers Without End (1996), The Gary Snyder Reader: Prose, Poetry, and Translations (1999), Danger on Peaks (2005), Snyder còn xuất bản nhiều tiểu luận trình bày những quan điểm về thơ, về văn hóa, kinh nghiệm sống, môi trường, như Earth House Hold (1969), The Old Ways (1977), The Real Work (1980), The Practice of the Wild (1990), A Place in Space (1995) – kể cả He Who Hunted Birds in His Father's Village: The Dimensions of a Haida Myth (1979) dựa trên luận văn của ông ở Reed College, và Passage Through India (1983) là những trang nhật ký từ chuyến đi Ấn Độ giữa những năm 60 với Allen Ginsberg, Peter Orlovsky và nhà thơ Joanne Kyger — người vợ từng sống với ông ở Nhật.
 
-------
* Nhà thơ Lawrence Ferlinghetti về sau từng gọi Snyder là “Thoreau của Thế hệ Beat.” [the Thoreau of the Beat Generation.]
 
 

Một đêm xuân ở Shokoku-ji

 
Cách nay tám năm tính đến tháng Năm này
Chúng ta bước đi dưới những cây anh đào nở hoa
Đêm trong một vườn cây ở Oregon
Tất cả những gì bấy giờ ta muốn
ngày nay đã quên mất, trừ em.
Ở đây trong bóng đêm
Trong một khu vườn ở cố đô
Ta cảm thấy chập chờn bóng ma Yugao[1]
Ta nhớ đến thân thể em lạnh giá
Trần truồng dưới một mảnh áo vải bông mùa hè.
 
 

Những điều cần biết để là một nhà thơ

 
tất cả những gì ta có thể biết về loài vật như những con người.
tên của cây và của hoa và của cỏ.
tên sao trời, và những chuyển động của các hành tinh
                                           và của trăng.
 
sáu giác quan của chính mình, với đầu óc tỉnh táo và lịch lãm.
 
ít nhất là một thứ ma thuật truyền thống:
thuật bói toán, thiên văn học, Kinh Dịch,[2] bài tarô;
 
những giấc mơ.
bọn ma quỷ hão huyền và thần thánh sáng chói hão huyền;
 
hôn đít của quỷ sứ và ăn cứt của nó;
giao cấu với cái củ dương sửng cồ gai góc của nó;
ngủ với mụ phù thủy,
và hết mọi thiên thần trên trời
                               và gái đồng trinh thơm phức và vàng óng –
 
& và sau đó yêu thương con người: vợ    chồng    và bạn bè.
 
những trò chơi trẻ con, truyện tranh, kẹo cao su,
cái kỳ lạ của truyền hình và những khúc phim quảng cáo.
 
làm việc, những giờ khắc dài khô khan công việc chán ngán
                                              phải nuốt trôi và chấp nhận
và sống trải và sau cùng là yêu thương.      kiệt sức
                                                               đói khát, nghỉ ngơi.
 
sự tự do điên cuồng của điệu nhảy, xuất thần
sự loé sáng cô đơn thầm lặng, nhập định
 
hiểm nguy thật sự.      những lối đánh cược.      và bên lề cái chết.
 
 
 

Thí dụ

 
Có một bà già người Hà-lan
Sống trong một căn phòng trong một ngôi nhà
Trước túp lều nhỏ đơn sơ của tôi
Suốt ngày bà ngồi trong vườn
Gần cửa lớn nhà tôi và đọc sách.
Bà bảo bà biết rõ phương Đông
Và đã có lần nhìn thấy một cuốn sách
Về các nhà sư Phật giáo. “Và anh
Chẳng có việc gì cần đi tới
Nhật bản. Điều cần ấy chính
Là đời sống, là trẻ và đi du lịch
Nhiều và yêu. Tôi biết
Cách các người sống, các người học cực khổ
Nhưng các người có bạn bè
Đến thăm và ở lại, và đạp xe, và
Còn có cả cái cây nhỏ các người
Trồng bên cạnh tường nhà” Trong khi tôi
Hứng đầy xô nước từ
Một cái ống chuyền. Mặt trời chiếu sáng
Mớ tóc bạc thưa của bà một con chim
kêu thét từ một cây Bơ trên không
& Đức Bồ tát tứ phương truyền dạy ta.
 
 
 

Dưới bảng hiệu Toki

 
      Palo Alto đó phải không?
       “Không, Wisconsin đây.”
      êm quá – giọng nói xa của một bà có tuổi –
                  nhấn không rõ - chắc Thụy-điển?
“Ông ở đâu thế?”     “Đây là Wisconsin.”
Mã số vùng sai rồi.
                  chúng tôi đã cùng uống trên dòng
                  nước nào trong một cuộc đời khác, để gặp
                  nhau mười giây đồng hồ ở đây thế?
 
                  Tiệm Toki
      thức ăn nhẹ
      thức uống nhẹ
      nước đá
      giun
 
Và mấy cô trực tổng đài
Không ngừng hỏi xem tôi muốn gì?
Sacramento, San Diego, Indiana, Ohio
      trong khi tôi đứng chờ đây với danh sách và thư từ,
      bên ngoài, chân lạnh trên bùn tuyết,
      ở trạm điện thoại công cộng
       (văn phòng của tôi)
xe tải điện thoại đến thu tiền trong khi chúng tôi nói
chuyện về nghệ thuật ở LA
      dưới bảng hiệu đóng đá
      cạnh xa lộ
nói chuyện,       nước đá        giun
 
      Và tuyết
từ những cành cây rơi xuống
trên cuốn sổ ghi chép của tôi
vào tận trong cổ tôi
                  từng giọt từng giọt
      ngói đỏ        cửa sắt        tường đá
khu phố xưa đổ nát
                        Tiệm Toki
                        nước đá
                        giun
 
Năm tôi làm
chủ tịch Hội đồng
Nghệ thuật California không có
điện thoại ở nhà và ở mười hai dặm
cách điện thoại công cộng nằm cạnh
Tiệm Toki bán Mì sợi từ
Okinawa và Mồi câu
 
---------------
[1] Yugao là tên nhân vật nữ đã tìm thấy cái chết trong một tác phẩm văn học cổ của Nhật: Truyện kể Genji.
[2] Book of Changes: cũng được gọi là I Ching.
 
“Một đêm xuân ở Shokoku-ji” dịch từ nguyên bản “A spring night in Shokoku-ji” trong The Beat Book — Writings from the Beat Generation, do Anne Waldman biên tập, với lời nói đầu của Allen Ginsberg (Boston: Shambhala, 1999). “Những điều cần biết để là một nhà thơ”, dịch từ nguyên tác “What You Should Know To Be a Poet” trong Gary Snyder, Regarding Waves (New York: New Directions, 1969). “Thí dụ” dịch từ nguyên tác “For Example” trong Gary Snyder, Left Out in the Rain — New Poems 1947-1985 (SF: North Point Press, 1986). “Dưới bảng hiệu Toki” dịch từ nguyên tác “Under the Sign of Toki’s” trong Gary Snyder, Axe Handles (SF: North Point Press, 1983).
 

Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021