thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Tường thuật từ thành phố bị vây hãm | Quyền năng của thẩm mỹ
Bản dịch của Lê Đình Nhất-Lang
 
 
ZBIGNIEW HERBERT
(1924-1998)
 
 

Tường thuật từ thành phố bị vây hãm

 
Quá già để mang súng và chiến đấu như những người khác—
 
họ rộng lượng giao cho tôi vai trò thấp hèn của một người chép sử biên niên
tôi ghi lại—chẳng biết cho ai—lịch sử của cuộc vây hãm
 
tôi phải chính xác nhưng tôi không biết cuộc xâm lăng bắt đầu từ lúc nào
hai trăm năm trước trong tháng mười hai vào mùa thu có lẽ hôm qua lúc rạng đông
ở đây ai cũng mất tri giác về thời gian
 
chúng tôi còn lại chốn này và sự gắn bó với chốn này
nhưng chúng tôi vẫn giữ gìn phế tích của đền đài bóng ma của vườn tược của nhà cửa
nếu chúng tôi để mất các phế tích chúng tôi sẽ chẳng còn gì nữa
 
tôi viết như tôi có thể trong chu kỳ của những tuần vô tận
thứ hai: những cửa tiệm trống lốc con chuột bây giờ thành một đơn vị tiền tệ
thứ ba: thị trưởng bị giết bởi những hung thủ không ai biết
thứ tư: những cuộc đàm phán đình chiến địch giam phái đoàn chúng tôi
chúng tôi không rõ nơi họ đang bị giam nghĩa là bị tra tấn
thứ năm: sau một buổi họp đầy dông bão đa số phủ quyết
đề nghị của những nhà buôn gia vị về việc đầu hàng vô điều kiện
thứ sáu: khởi đầu bệnh dịch thứ bảy: tự sát của
N.N., người phòng vệ kiên định nhất chúa nhật: không có nước chúng tôi đẩy lui
cuộc tấn công ở cổng phía đông tên Cổng Liên Minh
 
tôi biết tất cả chuyện này đều tẻ nhạt chẳng ai muốn nghe
 
tôi tránh bình luận giữ mọi cảm xúc trong vòng kiểm soát mô tả những sự kiện
họ nói chỉ những sự kiện có giá trị trên thị trường nước ngoài
nhưng với chút hãnh diện tôi muốn cho thế giới biết
nhờ cuộc chiến chúng tôi nuôi được một giống trẻ con mới
trẻ con của chúng tôi không thích chuyện thần tiên chúng thíchਠchơi bắn giết
ngày đêm chúng mơ toàn xúp bánh mì xương
y như chó mèo
 
vào buổi tối tôi thích lang thang bên trong lằn ranh Thành Phố
dọc theo biên giới tự do bấp bênh của chúng tôi
tôi nhìn từ bên trên xuống hàng hàng lớp lớp những đoàn quân trong ánh lập lòe
tôi lắng nghe tiếng trống rền rĩ tiếng thét man rợ
không tưởng tượng nổi Thành Phố vẫn còn chống chỏi
cuộc vây hãm đã quá lâu kẻ thù đã thay phiên nhau
bọn chúng không giống nhau chút nào trừ ham muốn hủy diệt chúng tôi
bọn Gô Tích bọn Hung Nô bọn Thụy Ðiển quân của Hoàng Ðế những đoàn quân của
Sự Biến Hình của Chúa Chúng Ta
ai mà đếm nổi chúng
những màu cờ thay đổi như cánh rừng ở chân trời
từ màu vàng mịn màng lông chim trong mùa xuân qua màu xanh lá cây màu đỏ
       tới màu đen mùa đông
 
và như vậy vào buổi tối không bị ràng buộc bởi những sự kiện tôi có thể nghĩ
về những vấn đề xa xưa chẳng hạn như về
những đồng minh của chúng tôi ở hải ngoại tôi biết họ thương thật lòng
họ gửi chúng tôi những bao bột đựng toàn an ủi dư thừa và khuyên nhủ tốt lành
mà không cả nhận ra rằng chúng tôi đã bị cha họ phản bội
cựu đồng minh của chúng tôi từ thời Sấm Truyền thứ hai
những người con vô tội họ xứng đáng với lòng biết ơn nên chúng tôi mang ơn họ
họ chưa bao giờ sống qua thời gian vô tận của một cuộc vây hãm
người sẵn số bất hạnh thì luôn cô đơn
vệ binh của Ðạt Lai Lạt Ma những người Kurd những người Afghan trên núi
 
bây giờ khi tôi viết những từ này phe chủ hòa
vừa mới giành được chút ưu thế trên phe bất khuất
tâm trạng thay đổi thường xuyên số mệnh chúng tôi vẫn ở trên bàn cân
 
những nghĩa địa rộng ra số người phòng thủ giảm đi
nhưng công cuộc phòng thủ tiếp tục và sẽ kéo tới cùng
và ngay cả nếu Thành Phố thất thủ và một người trong chúng tôi sống sót
anh sẽ mang Thành Phố trong anh trên mọi ngả đường lưu vong
anh sẽ là Thành Phố
 
chúng tôi nhìn vào tận mặt của cái đói mặt của lửa mặt của cái chết
và cái tệ nhất trong tất cả—mặt của sự phản bội
 
và chỉ còn những giấc mơ của chúng tôi là chưa từng bị làm nhục
 
                                                            Warsaw 1982
 
-----------------------
Dịch từ bản dịch tiếng Anh “Report from a Besieged City” của Czesław Miłosz, trong cuốn Spoiling Cannibals’ Fun: Polish Poetry of the Last Two Decades of Communist Rule, biên tập và dịch bởi Stanisław Barańczak và Clare Cavanagh (Illinois: Northwestern University Press, 1991).
 
Bài này là bài thơ tựa của tập thơ Raport z oblężonego miasta (Tường Thuật Từ Thành Phố Bị Vây Hãm, 1983) của Zbigniew Herbert, tập thơ được coi là “chấn động của thập niên” trong thơ Ba Lan.
 
 
 

Quyền năng của thẩm mỹ

 
                        Cho Giáo Sư Izydora Dambska
 
Chẳng cần chi nghị lực lớn
sự khước từ sự bất đồng và sự phản kháng của chúng ta
chúng ta có một ít can đảm cần thiết
nhưng căn bản đó là một vấn đề thẩm mỹ
                                  Ðúng vậy thẩm mỹ
trong đó hiện hữu thớ linh hồn sụn lương tâm
 
Ai biết nếu chúng ta đã khá hơn và được dụ dỗ cách hấp dẫn hơn
được tặng những người đàn bà da hoa hồng thon như bánh xốp
hay những con vật kỳ lạ từ trong tranh của Hieronymus Bosch
nhưng cái kiểu địa ngục gì thế vào thời này
một cái hố lầy đường hẻm của bọn giết người trại lính
được gọi là một tòa nhà của công lý
một Mephisto chế biến tại chỗ trong áo vét Lenin
gửi hậu duệ của Aurora ra ngoài đồng
những đứa con trai mặt củ khoai tây
những đứa con gái rất xấu xí hai bàn tay đỏ
 
Ðích thực ngôn từ của họ được làm bằng vải bố rẻ tiền
(Marcus Tullius không ngừng trăn trở trong mồ)
những chuỗi xích lặp đi lặp lại một mớ quan niệm như cái đồ đập lúa
phép biện chứng của đồ tể không có sự phân biệt nào trong lý luận
cú pháp bị tước hết cái đẹp của thể giả định
 
Ðể cho ngành mỹ học có thể giúp ích cho đời
ta không thể bỏ quên học về cái đẹp
 
Trước khi chúng ta tuyên bố đồng ý chúng ta phải xem xét kỹ
cái hình dạng của kiến trúc cái nhịp của tiếng trống tiếng kèn
những màu sắc chính quy cái nghi lễ đáng ghét của những đám ma
 
      Mắt và tai chúng ta từ chối tuân lệnh
      các ông hoàng của những giác quan chúng ta kiêu hãnh chọn lưu vong
 
Chẳng cần chi nghị lực lớn
chúng ta có một ít can đảm cần thiết
nhưng căn bản đó là một vấn đề thẩm mỹ
                                  Ðúng vậy thẩm mỹ
để hiệu lệnh cho chúng ta đi ra làm một bộ mặt giễu phóng một tiếng cười nhạo
ngay cả nếu vì vậy mà thủ đô quý giá của cơ thể cái đầu
                                                                          phải rơi
 
----------------------
Dịch từ bản dịch tiếng Anh “The Power of Taste” của John Carpenter và Bodogna Carpenter, trong cuốn Spoiling Cannibals’ Fun: Polish Poetry of the Last Two Decades of Communist Rule, biên tập và dịch bởi Stanisław Barańczak và Clare Cavanagh (Illinois: Northwestern University Press, 1991).
 
Bài này nguyên trong tập thơ Raport z oblężonego miasta (Tường Thuật Từ Thành Phố Bị Vây Hãm, 1983) của Zbigniew Herbert, tập thơ được coi là “chấn động của thập niên” trong thơ Ba Lan.
 

Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021