thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
 
ß1
Điện thoại

 

Điện thoại để đầu giường, chỉ cần nhấc máy lên và alô xin "Tư vấn tâm lý tình cảm" là tất cả sẽ thoát ra khỏi cái cơ thể còm cõi 36 kilô của tôi, tất cả sẽ thốc ngược từ dưới lên và ộc ra đằng miệng, rồi chảy ồ ồ vào cái lỗ tai đang hết sức thông cảm ở đầu dây phía bên kia

"Chị ơi, em sẽ giết. Rồi sau đó..."

"Em sẽ chết, phải không?"

"Không phải, em không chết được, đã tám năm rồi mà em không chết được."

"Chị hiểu, chị nghe em đây, em nói đi, chị đang nghe em đây."

Và tôi sẽ dốc hết, dốc hết. Thật dễ chịu khi nghe một giọng đầy quan tâm chị hiểu chị đang nghe em đây. Nhưng khoảng cách từ cánh tay tôi đến cái máy điện thoại đặt đầu giường là khoảng cách của tám năm kể từ hồi tôi mười bốn tuổi, không có cách gì để chạm được vào nó, mặc dù biết chắc rằng chỉ cần nhấc máy lên, một phút thôi, thậm chí chưa đến một phút, là tôi có thể gặp công an hoặc các dịch vụ hỗ trợ. Sao ông ta lại sơ hở đến mức cho lắp điện thoại trong cái phòng gần như biệt lập này. Không phải ông ta chủ quan mà chính là ông ta tự tin, từ lúc có điện thoại cho đến tận bây giờ, chỉ có mình ông ta sử dụng nó, ông ta biết chắc tôi bị tê liệt trước nó như tôi đã tê liệt trước ông ta trước tất cả những gì thuộc về ông ta những gì gợi đến ông ta. Tôi ở trong căn phòng này nhưng chỉ có ông ta mới thực sự hiện diện nơi đây, còn tôi tôi là không khí lấp đầy phổi ông ấy là nguồn nước phục hồi tuổi thanh xuân cho cái thân xác đã sắp tới ngưỡng già nua ấy là thức ăn ních đầy cái dạ dày ham hố ấy tóm lại là dưỡng chất cho cái sinh vật đáng nguyền rủa ấy từ tám năm nay, nhưng tôi không là gì cả chỉ là một khoảng trống giữa các đồ vật trong phòng (thật y như những nhân vật của Robbe-Grillet mà tôi đang được học ở học kỳ này, tôi là một hiện hữu-vắng mặt [présent-absent] song tôi không vắng mặt với người khác mà vắng mặt với chính tôi với chính cái tôi của tôi, nhiều lúc tôi muốn nhìn thấy nó, thấy gương mặt của cái tôi ấy muốn nghe giọng nói của cái tôi ấy muốn sờ vào hình hài nó muốn dùng dao cắt xẻo một phần cơ thể nó để xem nó có đau không, tôi hoàn toàn bất lực, không thể chạm được vào nó không thể chạm được vào khoảng-không-tôi, hàng ngày tôi nhìn cái khoảng-không-tôi ấy và chờ đợi cái tôi của tôi hiện hình, tôi hình dung nó xuất hiện trước hết như một hình bóng mờ ảo rất khó nắm bắt tận sâu trong không gian n chiều rồi nó hiện lên dần dần cho đến khi có thể phân biệt một hình hài có đường nét và càng ngày những đường nét càng lộ rõ đến mức có thể định hình định tính định danh, song cho đến nay tất cả mới chỉ là tưởng tượng, tôi chỉ biết một điều là tôi vẫn chưa thôi chờ đợi, rồi một hôm tôi nhận ra rằng duy nhất chỉ có nó, sự chờ đợi ấy, là thuộc về tôi, nghĩa là tôi sở hữu sự chờ đợi của mình) một khoảng trống đủ làm thoả mãn hắn ta, không có gì thuộc về tôi không có gì đễ xác định tôi là tôi. Nhưng cái khoảng trống là tôi lại đông đặc một khối cứng và chắc. Nếu tôi có thể bay hơi được như không khí tôi sẽ thoát ra ngoài bằng khe cửa sổ bay vút lên vòm trời xanh trên kia (cái vòm xanh cao và sâu trên ấy chưa bao giờ là của tôi), nếu tôi có thể tan chảy được như nước thì tôi sẽ luồn ra ngoài qua khe cửa chính đổ ào xuống thang băng qua phố phường trút xuống dòng sông. Tại sao các tế bào của tôi lại kết dính vững chắc đến vậy, tại sao các tế bào của tôi không bị phân huỷ tan rã và bốc mùi hôi thối, như vậy hắn sẽ ghê tởm mà tránh xa tôi ra. Hắn tìm thấy niềm vui thú gì ở cái thân xác khô héo 36 kilô của tôi mà các bộ phận đã tàn lụi trước khi kịp bung nở chẳng bao giờ còn bung nở được nữa.

Một lần tôi đã hỏi mẹ: "Mẹ còn chờ gì nữa?"

"Mẹ không phải là mẹ."

"Và con cũng chẳng phải là con."

"Khi tám năm ròng..."

Một khối đau khổ man dại trong mắt ngăn không cho mẹ ngẩng đầu lên, tôi thèm được nhìn vào đôi mắt ấy, tôi thèm được đôi mắt ấy nhìn vào tôi một lần để thấy sự đau khổ nỗi dày vò của tôi, tức cũng chính là nỗi thống khổ của bà.

"Mẹ không muốn làm gì sao? Chưa bao giờ mẹ muốn làm một điều gì để chấm dứt chuyện này sao? Báo cho họ hàng? Báo cảnh sát?"

"Con biết rõ vì sao mẹ không thể làm gì được."

"Con không biết con không biết con không biết."

Về phần mẹ, tôi vừa hiểu vừa không hiểu tại sao mẹ chấp nhận một tình trạng như vậy cho mẹ và cho con gái mẹ, tại sao mẹ chịu đựng sự nhục nhã khổ sở ấy, sự khổ sở tăng lên gấp bội vì tôi là con gái mẹ. Còn về phần mình, tại sao tôi chấp nhận? Tôi sợ cho mẹ, phải chăng đó là lý do lớn nhất cho đến lúc này. Và cho đứa em gái sắp đến mười bốn tuổi của tôi, đứa em gái cùng mẹ khác cha với tôi, tôi vừa là chị vừa là dì ghẻ của nó, một căn phòng biệt lập, y hệt như căn phòng tôi ở đây, và cũng chính trong ngôi nhà này, đang chờ đợi nó. Ông ta sắp giằng nó khỏi vòng tay mẹ để ném nó vào cái chốn sẽ biến nó thành một khoảng trống giữa các đồ vật, bên cạnh khoảng-không-tôi sẽ có thêm khoảng-không-nó, sẽ chỉ duy nhất mình tôi nhìn thấy cái khoảng-không-nó ấy. Tôi nhìn thấy nó tám năm sau cũng y hệt như tôi bây giờ, mà có lẽ không cần đến tám năm, có khi chỉ một năm thôi, có khi không đến một năm.

Tôi lại nhìn cái điện thoại. Nếu một sinh viên đại học năm thứ ba như tôi mà không thể nhấc nổi một cái máy điện thoại, không biết bắt đầu câu chuyện của mình như thế nào thì đó là lỗi tại ai? Báo công an ư? Thì chẳng lẽ lại báo cho chính ông ta sao, ông ta chẳng phải là công an sao? Mẹ đã chọn ông ta vì muốn được bảo vệ và ông ta đã bảo vệ chúng tôi theo cách đó để cho không một nguy hiểm bên ngoài nào có thể tác động được đến chúng tôi, không một thế lực nào có thể bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà này mà không trút bỏ toàn bộ sức mạnh ở ngoài cửa, không một thế lực nào đủ sức mạnh bắt chúng tôi mở miệng, bắt chúng tôi mở toang những bí mật nhục nhã của mình.

Tôi nhìn vào khoảng-không-tôi và chờ đợi. Tôi sẽ bỏ học hôm nay ngày mai ngày kia thậm chí sẽ bỏ hẳn nhưng tôi sẽ đợi, đợi cho đến khi nào khoảng trống ấy được lấp đầy thì thôi (như thế có dễ hơn việc nhấc máy điện thoại lên không, tôi không biết không cần biết) vì đến trường đối với tôi là một giấc mơ tự do không thành nhưng ngày lại ngày vẫn phải mơ đúng sáu tiết trên giảng đường ở đó tôi là một hiện hữu-vắng mặt giữa bao nhiêu người ngồi quanh, tôi mong có một ai đó sẽ nhìn thấy tôi và cái khoảng-không-tôi cùng một lúc nhưng đó lại là một giấc mơ tri âm không thành, mọi người hẳn đã đem hàng vạn lý do để cắt nghĩa cho cái khối 36 kilô kỳ cục là tôi nhưng không mảy may một bình luận nào đến được với tôi mà giả sử tôi có biết được chăng nữa thì nó cũng không mảy may làm thay đổi tình trạng khốn cùng của tôi, "sự khốn cùng của con người là cơ hội của Chúa", chẳng biết Nguyễn Việt Hà đã dẫn câu này ở phần nào trang nào dòng nào trong kinh thánh, tôi là một cơ hội của Chúa nhưng Chúa đã chối từ cơ hội này. Tôi biết nhờ có Chúa con người được nội cảm hoá triệt để thành nhân cách tự do và duy nhất, con người được hoán cải tận chốn sâu thẳm nhất của bản thể, con người trở thành một linh hồn có giá trị tuyệt đối và nhờ đó có thể thoát khỏi mọi ràng buộc vào nhóm và cộng đồng, thoát khỏi mọi ràng buộc. Tôi học được điều đó trong sách. Tôi còn biết rằng, với Sénèque, điều quan trọng là tự mình thành chính mình, phải sung sướng về bản thân mình; với Michel Foucault, nghệ thuật sống phục tùng nguyên lý phải quan tâm đến bản thân mình. Nếu tôi có thể biến những sức mạnh trong sách thành sức mạnh của tôi. Nhưng tất cả những từ đó đều xa lạ với tôi, những nghệ thuật sống, tự do, bản thân, quan tâm, chính mình, dù tôi có lặp lại hàng trăm lần thì với tôi chúng hoàn toàn vô nghĩa, chúng là những từ rỗng, mỗi từ là một khoảng không mà tôi chẳng thể lấp đầy. Ông ta thậm chí không hề phản ứng khi tôi liên tục lảm nhảm : chính mình, bản thân, bản thân mình, cho tới lúc không còn đủ sức để lảm nhảm nữa.

Tôi nhìn vào khoảng-không-tôi và chờ đợi. Hôm nay đã là ngày thứ mười tôi bỏ học. Tôi nhìn thấy một vết nứt giữa khoảng-không-tôi và nó dần dần bị xé rách để lộ một hình hài mơ hồ trần trụi (chắc cũng trần trụi như tôi khi lọt lòng mẹ, trần trụi và trong vắt, có lẽ không dính tí bụi nào), mắt tôi từ đây không rời hình hài đó nữa. Ngày thứ mười lăm tôi nghỉ học, hình hài càng hiện rõ càng mất vẻ trần trụi, tôi có thể nhận thấy cái váy rất quen thuộc nhưng không nhớ được tôi đã mặc nó hồi nào (nhưng tôi đã từ tám năm nay không còn biết gì về bản thân mình thì làm sao còn nhớ được mình đã từng mặc cái váy nào). Ngày thứ hai mươi, phía sau hình bóng giờ đã định hình rõ nét là khoảng không chói sáng, mái tóc dày và dài phủ lấy bờ vai, tôi chưa bao giờ có mái tóc như vậy (tóc tôi chưa bao giờ để xoã, lúc nào cũng bị buộc gọn sau gáy, bị cầm tù bởi những cặp tóc to màu xám những cặp tóc của tôi lúc nào cũng chỉ có một màu duy nhất, màu xám), không thể trông thấy gương mặt, như khi ta nhìn ngược sáng, khuôn mặt chìm trong bóng đen. Ngày thứ ba mươi, khuôn mặt vẫn chìm trong bóng đen, vậy ra tôi không thể biết được gương mặt cái tôi của tôi như thế nào hay sao? Ngày thứ năm mươi, sau thất bại ở những nỗ lực cuối cùng, tôi nhắm mắt lại, và khi tấm màn đen của hàng mi buông xuống, gương mặt bí ẩn kia đột ngột sáng rực lên. Tôi thấy gương mặt em tôi trong mái tóc của nó (đúng là mái tóc của nó, và cả chiếc váy cũng là của nó). Tôi đã nhìn thấy em tôi trong khoảng-không-tôi.

Điện thoại để đầu giường, tôi nhấc máy lên và alô.

 

(05.10.2003)

Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021