|
Franz Kafka (I) & (II) | Những quốc gia phát xít | Bạn cùng phòng
|
|
Bản dịch Hoàng Ngọc Biên
WIKTOR WOROSZYLSKI
(1927-1996)
Wiktor Woroszylski (1927, Grodno - 1996, Warsaw) sinh tại Grodno, ngày nay là Belarus, là một trong những nhà thơ hàng đầu của Ba Lan đương đại. Ông còn là người dịch thơ Nga, viết truyện, tiểu sử và tiểu luận. Ông học văn học ở Lodz, Warsaw và Moscow (Viện văn học Gorki), và thời trẻ tuổi từng là một trong số những nhà văn Ba Lan ủng hộ nhiệt tình nhất trật tự chính trị mới và đường lối hiện thực xã hội chủ nghĩa, vào cuối thập kỷ 40 và đầu thập kỷ 50. Tuyển tập thơ đầu tiên của ông, Smierci nie ma, là một trong những thí dụ về thời kỳ ông được coi như một trong những pryszczaci (người non dạ). Năm 1956, ông biên tập tờ Nowa Kultura, tuần báo văn học cộng sản hàng đầu, cộng tác với báo định kỳ Sztandar Młodych, và còn rất tin ở hệ thống chính trị mới. Nhưng không bao lâu sau đó, cũng vào năm 1956, sau những kinh nghiệm trên đất nước ông cũng như từ cuộc nổi dậy ở Budapest – nơi ông có mặt như một phóng viên chiến trường – ông trở thành một đại biểu lãnh đạo của phe ly khai trong giới văn học Ba Lan. Ông là một trong những người sáng lập và biên tập tờ báo định kỳ đầu tiên ở Ba Lan thoát ra ngoài vòng kiểm duyệt, tờ Zapis, và trong những năm 70 thường xuyên tham dự những cuộc biểu tình, lên tiếng đòi dân chủ và phản đối Nhà nước Ba Lan thời trước đây. Bị bắt năm 1982 trong biến cố nổi dậy ở nhà máy Ursus ở Warsaw sau khi chính quyền Ba Lan áp đặt thiết quân luật, ông sống trong trại giam một năm liền. Woroszylski đã xuất bản nhiều tập thơ, truyện ngắn, tiểu luận, tiểu thuyết, nhiều sách cho thiếu nhi và các tiểu sử-tiểu luận cải cách về cuộc đời của Pushkin, Yesenin, và Mayakovski.
Thơ ông thường cho thấy lối diễn đạt châm biếm, sự sắc sảo, tính bóng gió rất gần với Milosz và Herbert. Tập thơ Zagłada gatunków (Hủy diệt những chủng loại, 1970) có thể được gọi là tác phẩm tiêu biểu nhất của ông, trong số những tập thơ đã xuất bản: Trzypoematy, 1952; Niezgoda na ukłon, 1964; Jesteś, 1978; Lustro. Dziennik internowania, 1983; W poszukiwaniu utraconego ciepła, 1988; Z podróży, ze snu, z umenierania, 1992; và nhiều truyện ngắn.
Wiktor Woroszylski từng nhận được Giải thưởng Alfred Jurzykowski Foundation và Giải thưởng của Văn bút Ba Lan.
Franz Kafka (I) Khi Franz Kafka viết truyện truyện của ông không phải là
tấm gương phản chiếu hiện thực Ông ra đời và sống
trong chế độ chuyên chế ôn hòa nhất và sau đó nó rơi vào
chế độ dân chủ tư sản tử tế nhất châu Âu Trong một thế giới
khó tiếp thu với sách Khải huyền đến độ khi bị nuốt vào
rồi thì không thể nào ngưng tự vấn Trong thành phố nơi
đến nay người ta có thể tìm ra dấu vết bất cứ ai từng sống ở đấy
trước cả sách Khải huyền Kể luôn
cả Franz Kafka Đây là
ngôi nhà nơi ông ra đời Đây là nơi chị người làm
kể ông nghe những truyện kinh dị trên đường đi học Đây
là nơi ông từng làm việc cho một hãng bảo hiểm và không dám
xin nghỉ hai ngày để ra khỏi thành phố
và gặp cô tình nhân Đây là
ngôi mộ gia đình Kafka Nhà nào nhà nấy
hãy còn đứng nhưng có một số nơi
vôi vữa đổ xuống Những người sống trên đất này
cũng chỉ cái giếng xưa ông từng mô tả trong
một truyện kể đầu tiên và bên trong một ngôi nhà thờ
trong một cuốn tiểu thuyết Nhưng
nếu ai muốn tìm trong những gì ông viết một hình ảnh
thế giới ông sống sẽ là chuyện
bất công và cái thế giới đáng kính ấy sẽ có toàn quyền
cảm thấy bị sỉ nhục bởi lẽ nó không
phải như thế Nó quả
trong sáng và đơn giản hơn May thay
họ khởi sự đọc Kafka lâu sau đó khi hình thể thế giới
bắt đầu lặng lẽ lách vào mỗi chữ ông sáng chế điều chỉnh
chỗ thời gian bị ngưng và rên rỉ đau đớn.
Franz Kafka (II) Franz Kafka lúc nào cũng mong
tin và gây niềm tin Trong số
sách ông đọc say sưa hơn cả có
những truyện của Božena Nĕmcová Thường
ông đem sách ra đọc lại cuốn hút vào
cái ấm áp từ sách tỏa ra và mong
sẽ được giống như bà cụ tốt bụng đem phân phát
bánh mì cho mọi người Có lần
ông đọc một cuốn sách của bà có tên Trong Lâu đài
và trong Làng
[1] và sách đã gây ấn tượng
nơi ông đến nỗi ông không thể
cưỡng lại ý muốn bắt chước Ông viết
dài và nuôi hi vọng mình sẽ thành công
tạo được một tác phẩm tươi sáng như thế với một
hồi kết vui vẻ như thế nhưng
ông không thành công và rất đau khổ và muốn
đem đốt những gì ông đã viết.
Những quốc gia phát xít Ngay sau chiến tranh 1914-1918 những quốc gia phát xít
đầu tiên
nổi lên ở châu Âu Trong những quốc gia đó
mặt trời mọc và lặn theo giờ thông lệ ánh sáng tỏa lan
trên mái những nhà trại và những dốc đồi xanh Trâu bò
cất tiếng kêu khẽ trong chuồng Các bà mẹ hôn
lên trán con để đánh thức chúng vào lúc
bình minh Những ông cha
từ chỗ làm trở về
tươi cười với xương cốt nhức mỏi mang mùi
khói từ những đáy lò của họ và sau bữa ăn tối
ngủ gà gật trên những chiếc ghế bành hoặc còn can đảm
sửa sang này nọ hoặc
dợt nhạc một cách say mê Những đứa trẻ
chơi banh dính chơi ô lò cò và trốn tìm Các cô gái nhỏ
nhú lên đôi vú và đầu hôm sớm mai
các cô gái nhỏ trở thành những cô gái lớn đầy những
tiếng xì xào
và thì thầm như cây trong rừng và những tiếng cười
khúc khích
đột ngột
làm khô cổ họng các chàng trai Những tối mùa hè
những cái màn được chiếu sáng từ bên trong cho thấy
những bóng người tụ họp
ra về và tụ họp trở lại Còn vào mùa đông
thì những cặp tình nhân hít hơi thở của nhau trong
những khu vườn
có tuyết Và
người ta cũng có thể kể đến những con mèo uốn cong lưng
những con chim sẻ
bay cao trên hè phố những bà già trên vòm cửa và
những bông hoa
người ta cắt và trồng vào chậu những cô y tá
lấy mạch cho bệnh nhân những người quét đường
cầm chổi Người ta có thể kể đến củi
khô gió trong một bụi cây những luống cày ẩm ướt trên
một cánh đồng Và người ta cũng có thể
gọi để lưu ý nhiều đặc điểm làm bằng chứng cho thấy
Bởi không có những dấu hiệu trên bầu trời những
ngôi sao chổi
ảm đạm
những bụi cây cháy nước hóa thành máu Bởi
đời sống vẫn tiếp tục như bao giờ Kể từ đây trong
các quốc gia
kia thật sự là có
nhiều người bình thường và là những người tốt và là
những người
không biết gì cả và là những người với họ
chuyện ấy chưa bao giờ xảy ra và là những người
không hề tự coi mình là đồng lõa và là những người
không dính dáng gì đến chuyện ấy và còn
không đọc cả báo hoặc đọc lơ là bị kẹt trong
những ý nghĩ về những gì họ phải làm xong
chữa lại mái nhà dột đem giày đi
sửa đề nghị uống
một cốc bia trộn màu sơn thắp một ngọn nến và là
những người
thực sự đã không nhìn thấy vẻ sợ hãi trong đôi mắt một
người láng giềng đã không
nghe những giọng nói run rẩy của những du khách hỏi
thăm đường đã không
nhìn thấy sự khác biệt đã không nghe
một tiếng nói bên trong hoặc nếu
họ có nghi ngờ gì cũng chẳng có gì họ có thể làm được và
họ tự an ủi
nói Ít ra chúng tôi
không đang làm gì bậy chúng tôi sống cách xưa nay
chúng tôi vẫn sống Là điều đúng
Thế nhưng đó vẫn là
những quốc gia phát xít
Bạn cùng phòng Những người bạn cùng phòng với tôi ở nhà thương
là những người rất dễ thương
Nhưng họ bây giờ chết cả rồi
Ô. Wisniewski ở giường bên trái tôi
người bị mổ lấy mất một lá phổi và là người tin
rằng lá còn lại chỉ cần học
cách thở và như thế ông sẽ hết khò khè
Ô. Liebchen ở giường bên phải tôi
người cứ mắc cỡ vì phải nằm mãi một chỗ
và ăn bằng muỗng, và còn vì cái ống
chạy từ chăn đắp của ông xuống tới một cái chai trong
suốt, là người kể cho chúng tôi nghe
làm sao ông đã lái chiếc xe tải của mình đi suốt
hai ngày trời
Ô. Jastrzebski ở giường đối diện
người kể chuyện đùa Bác sĩ sao ông không cứ việc
nhìn nhận
là trong ruột của tôi có một con quái vật có cái kềm
cùng vần với chữ “thềm”, hiểu chứ, bác sĩ?
Tôi nhớ những chuyện về họ Và tôi nhớ
tôi với họ Chẳng hạn có lần
suốt ngày tôi kể cho họ nghe mấy truyện trong sách của
một ông nhà văn nọ
mới đây thôi vừa bị tố cáo trên báo đảng
Và họ lắng nghe sửng sốt
Chuyện không phải đã lâu Nhưng họ bây giờ chết cả rồi
Chỉ có Ô. Wasilewski ở giường gần cửa sổ
là còn sống Thỉnh thoảng tôi gặp ông chỗ gần nhà tôi
và chúng tôi dừng lại một phút Tim ông vẫn còn
làm ông lo lắng
nhưng ông đã đi làm trở lại tôi đoán vì làm việc
(ông bảo) thì còn lên mặt ta đây cho tới khi tôi về vườn
Thế đấy và tôi thì còn sống
-------------------
Kafka (I) và Kafka (II): dịch theo bản Anh ngữ của Magnus J. Kryński và Robert A. Maguire, Contemporary East European Poetry: An Anthology, Expanded Edition, Emery George biên tập (Oxford University Press, 1993). "Những quốc gia phát xít" và "Bạn cùng phòng": trích từ Thơ mới Ba Lan, Hoàng Ngọc Biên dịch và giới thiệu, 160 trang, Nhà xuất bản Trình bầy, 1993.
_________________________ [1]Trong Lâu đài và trong Làng là tên một tác phẩm văn xuôi nửa có thật nửa hư cấu của Božena Nĕmcová. Tên sách tiếng Tiệp là V zámku a v podzámcí. |