|
BỐN BÀI THƠ
|
|
Bản dịch Hoàng Ngọc Biên
RAYMOND RADIGUET
(1903-1923)
Raymond Radiguet ra đời ngày 18 tháng Sáu 1903 ở Saint-Maur-des-Fossés, Seine – một trạm khí tương đối gần Paris, lớn lên giữa Thế chiến I, và bầu khí hậu phương nơi đây đã ảnh hưởng ít nhiều đến cái viết của chàng thanh niên tuy thời niên thiếu cũng như việc học hành không để lại nhiều dấu vết đáng ghi nhận, trừ chuyện cậu học sinh bỏ học từ năm 14 tuổi, nhưng từ mười tuổi đã đọc ngấu nghiến hết những sách văn chương trong thư viện gia đình (các nhà văn thế kỷ XVII và XVIII, Mme de Lafayette, rồi Stendhal, rồi Proust, và Verlaine, Mallarmé, Rimbaud, Lautréamont...), làm thơ, và cuối cuộc đời quá ngắn ngủi đã lưu lại không ít những giai thoại hấp dẫn – và trên tất cả, là những kiệt tác.
Không chắc cậu bé Raymond đã thừa hưởng một phần nào bàn tay vẽ vời của ông bố vốn là một hoạ sĩ chuyên vẽ ký hoạ, từ rất sớm Radiguet đã bắt đầu vẽ và viết, trước khi lên sống ở Paris. Năm 16 tuổi Radiguet đã là thành viên của hai nhóm Dada và Lập thể, thường xuyên lui tới khu Montparnasse, trở thành bạn văn nghệ thân thiết của Jacob, Reverdy, Salmon, các hoạ sĩ Picasso, Modigliani, Hugo, Gris, các nhà soạn nhạc trẻ như Auric, Poulenc, Honegger, Milhaud... và được Jean Cocteau khuyến khích và bảo trợ. Ông từng cộng tác với nhiều tờ báo như L’Eveil, L’Heure, Le Rire (ở vai trò thư ký toà soạn), các tạp chí Sic và Littérature, cùng với Louis Aragon, André Breton, Tristan Tzara và Philippe Soupault.... Tác phẩm đầu tay của Raymond Radiguet là Les joues en feu, tập hợp những bài thơ viết năm chàng thanh niên mới chỉ mười lăm tuổi, xuất bản năm 1920 (Jean Hugo minh hoạ), mang nhiều ảnh hưởng siêu thực, hướng về những giấc mơ và với một lối viết tự phát – tuy người đọc nhận ra ngay một thứ thơ ca vượt mọi trường phái, có khi hướng ngược về truyền thống thơ cổ điển, nói đúng là tân cổ điển thuộc thế kỷ XVIII. Năm 1920 Radiguet chuyển về sống trong làng đánh cá Carqueiranne gần Toulon, sau đó lại chuyển qua Piquet là nơi chàng thanh niên khởi sự viết Le diable au corps, cuốn tiểu thuyết đã làm nên tên tuổi của chàng, đồng thời cũng là một trong những tác phẩm thời bấy giờ đã làm dấy lên một làn sóng phê phán khá gay gắt. Cuốn sách (trước khi xuất bản đã được Jean Cocteau “tiếp thị” khắp các phòng khách văn chương và các xưởng vẽ ở Paris) là lời kể của nhân vật chính mười lăm tuổi, câu chuyện là quan hệ dan díu của cậu học sinh với một phụ nữ trẻ mười chín, ngay sau ngày người chồng mới cưới ra mặt trận – những hoàn cảnh ái ân và xung đột dẫn đến cái chết của cô này sau khi sinh con... Năm 1921 đánh dấu tác phẩm thứ hai, tập thơ Devoirs de vacances, cũng là năm xuất hiện vở kịch Les Pélicans, được Georges Auric viết phần nhạc. Tác phẩm sau cùng của Radiguet là Le Bal du Comte d’Orgel, xuất bản năm 1924, sau khi ông mất ngày 12 tháng 12,1923 vì bệnh thương hàn và được chôn tại Nghĩa trang Père-Lachaise, cũng là một câu chuyện tình hay nói đúng là ngoại tình đầy âm thanh và cuồng nộ. Hầu hết các tác phẩm đã xuất bản của ông[*] đều được dịch qua nhiều thứ tiếng, có cuốn như Le Bal du Comte d’Orgel còn có ít nhất là ba bản dịch Anh ngữ khác nhau. Một trong những câu chuyện được nhắc nhở về con người của Raymond Radiguet, ấy là đúng ba ngày trước khi chết, ông nói lời cuối với Jean Cocteau (là người viết một lời tựa rất cảm động, coi lại bản cuối cuốn Le Bal du Comte d’Orgel trước khi chuyển cho nhà in và có “nhúng tay đáng kể vào bản thảo này”): “Anh nghe đây, tôi có một chuyện khủng khiếp cho anh biết. Trong ba ngày nữa, những chiến binh của Thượng đế sẽ bắn chết tôi...”
Năm 2003, kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Raymond Radiguet, nước Pháp đã tổ chức một cuộc hội thảo lớn qui tụ những cây bút chuyên môn nhất từng có công trình nghiên cứu về nhà văn - nhà thơ này. Chỉ dùng một chút “nhận thức toán học”, chúng ta cũng có thể đoán không thể nào có mặt ở cuộc hội thảo này một nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ hay hoạ sĩ từng lui tới với Raymond Radiguet.
Bìa cuốn sách kỷ niệm 100 năm Raymond Radiguet, xuất bản năm 2005, nhân cuộc hội thảo 2003.
_________________________ [*]Les Joues en feu (1920), Devoirs de vacances (1921), Les pelicans (kịch, 1921 - với phần nhạc của Georges Auric), Le Diable au corps (Giải thưởng Nouveau-Monde, 1923), Le Bal du Comte d’Orgel (1924), Les Joues en feu (1925), Œuvres cpmplètes (1952 & 1959), Règle du jeu (1957), Gli Inediti (1967), Paul et Virginie (1973, với Jean Cocteau). Riêng Le Diable au corps và Le Bal du Comte d’Orgel đều được đưa lên phim nhiều lần, nổi tiếng lâu hơn cả có thể là bộ phim Le diable au corps của Claude Autant-Lara (1947, với Gérard Philipe) và bộ phim tình dục vô cùng hiện thực Il diavolo in corpo của Marco Bellocchio (1986). _________
Vénus lộ chân tướng Nàng Vénus không chỉ thổ lộ với tôi
Bí mật của nàng, mà cả những bí mật của mẹ nàng:
Ngày xưa, tôi nhìn biển
Như một đứa bé không biết đọc
Nhìn những cuốn sách.
Vénus khoe đã lên đến những
Vòm trời điên loạn, không phải nhờ đến
Mẹ mình. Hỡi nữ thần, dù sao cũng cần để cho
Một cậu học trò phủ nhận chuyện kể của mình.
Nàng dạy ta cách đọc nhuần nhuyễn
Những ngọn sóng biển vốn là
Những nếp nhăn trên bụng mẹ,
Những trò khoác lác ấy của nàng quả là vụng về!
Và ta trả thù như một cậu học trò
Khờ khạo sẽ trả thù: cái giá những
Bài học mạo hiểm của nàng
Ấy là dạy nàng đọc cho hiểu được tâm hồn ta.
Bài thơ chiếc chăn lông đỏ phơi trên cửa sổ
những cánh hoa nằm giữa đũng chiếc qu
ần ngôi vườn ấm áp trong cây quế trúc
mùi hương vải vóc ấm hong khô
cây dẻ cất tiếng hát
đấy có phải là những ngọn nến hồng cắm không đều
hay là một chú chim
tr ê sợ dâ nh g đ vả ca m a
n i y ữn ồ i ú
o ơ i y ắ đ a
á s m ta ng n ư
c h ay ho i
án t c tô
Chú thích:
trên sợi dây những đồ vải ca múa
áo sơ mi tay ngắn đưa
cánh tay cho tôi
Bài thơ Đường chân trời
Những mảnh đầu
Trong chiếc ghế xích đu
Những bức tường
Lịch thiên văn đã ghi đến ngày hôm kia
Một chiếc ô tô tải nghiến nát những cái bóng của ta
S.V.P.
Người ta xô đẩy nhau ở các cổng Trời hay những Cửa hàng bách hoá
Những lời nói va vào nhau
Những mặt hàng du lịch nhưng
Có nhiều khách hơn ở gian hang đồ dung nhà bếp đai c
Héo lễ phục của thị trưởng
Cuối đường tàu
Là biển
Bản đồ Các bạn bao nhiêu người?
tôi chỉ biết đếm đến mười một
anh nói lớn lên tôi không còn nghe anh được nữa
tôi chỉ nhìn thấy vài ba chiếc ghế
và ngọn đèn
THÀNH PHỐ
chỉ một dòng sông
nét vẽ màu xanh chỉ con sông
Xin anh hãy khoan đi
Những con đường tìm nhau
gặp nhau
Qua một dòng khác.
Những dòng lướt qua.
Họ bỏ đi
Ai nấy mỗi người theo một hướng khác nhau
QUÁ KHỨ
những gì xảy ra cách đây
cả ngàn năm
không
cách đây ba phút
------------------
“Vénus lộ chân tướng” dịch từ nguyên tác “Vénus démasquée” trong Raymond Radiguet, Les Joues en feu (deuxième série), Poèmes anciens ou inédits, 1917-1921 (Bernard Grasset, 1925) – in lại trong Raymond Radiguet, Œuvre poétique (La Table Ronde, 2001). “Bài thơ”, “Bài thơ” và “Bản đồ” dịch từ nguyên tác tiếng Pháp “Poème”, “Poème” và “Plan” trong The Cubist Poets in Paris – An Anthology, do L.C. Breunig biên tập, French Modernist Series (University of Nebraska Press, 1995).
Hình trên: Tái tạo một bản litho Raymond Radiguet do Valentine Hugo (1887-1968) vẽ năm 1921.
|