thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Je ne sais quoi | Cám dỗ
 
 
Bản dịch Hoàng Ngọc Biên
 
 
 
ARTUR SZLOSAREK
(1968~)
 
Artur Szlosarek sinh năm 1968 ở Kraków, Ba-lan. Ông học ngôn ngữ và văn học Ba-lan tại Đại học Jagiellonian ở Ba-lan và văn học đối chiếu tại Đại học Bonn ở Đức, rồi sống luôn ở thành phố này. Tác phẩm thơ đầu tiên của ông xuất hiện trên những trang báo Zeszyty Literackie [một thời là báo của những người Ba-lan sống ở hải ngoại], sau đó là những tạp chí bruLion, Tygodnik Powszêchny... Ông là tác giả nhiều tập thơ, trong số có Những bài thơ viết [Wiersze napisane (Cracow: Oficyna Literacka, 1991)], Thơ nhiều dạng [Wiersze rozne (Cracow: Oficyna Literacka, 1993)], Tro than và mật [Popiol i miod (Cracow: Znak, 1996)], Phòng tối [Camera obscura (Cracow: Oficyna Literacka, 1998)], và gần đây là những tập: Thư gửi một bức tường [List do ściany (Cracow: WL, 2000)], Wiersze powtórzone (Cracow: WL, 2002), Dưới bầu trời xứ xa [Pod obcym niebem (Cracow: WL, 2005)]... Nhà phê bình văn học lỗi lạc Marian Stala từng cho rằng tác phẩm của Szlosarek là một trong “những hiện tượng chững chạc và lạ lùng nhất trong nền văn học mới”. Artur Szlosarek đoạt Giải thưởng Koscielski năm 1993.
 
 

Je ne sais quoi*

 
con người có nên nói
về chính mình? nếu thế, hôm nay,
ngay bây giờ, trên đường tôi về từ cửa hàng tạp hoá,
tôi để ý thấy cái an nhiên
tự tại của một ông già nọ, khi dựa mình vào
một bức tường bị ánh sáng làm nát vụn
từng mảnh, vẫn còn cầm bên bàn tay phải
bộ răng giả của mình –
 
trong khi viết ra chuyện này, không nhất thiết phải
là tôi đang nghe tội ác và giải pháp đô thị
(đối thủ - truyền trực tiếp, số 9),
không nhất thiết là tôi đã mua bánh mì, và đang hút
một điếu gitanes,
phải là mùa xuân sắp đến nơi, là tôi đang bị sổ mũi
và tôi ưa bốc đồng cáu kỉnh,
phải là tôi làm việc tại một nhà hát –
 
tôi nghĩ mọi người đều
buộc phải độc quyền nói lên
điều mình nghĩ, chỉ có thế
 
---------------
* Je ne sais quoi (tiếng Pháp sử dụng trong nguyên tác tiếng Ba Lan) có nghĩa: Tôi không biết cái gì.
 
 

Cám dỗ

 
Và nếu như ác quỷ thân hành đến viếng tôi và bảo,
“Hãy yêu ta, ngươi tất sẽ được cứu rỗi,” tôi sẽ
Nói gì để đáp lại? Rằng tình yêu là giải pháp tốt hơn cả?
 
Ba ông Đạo sĩ gặp nhau và uống trà tán dóc.
 
Ông thứ nhất đến từ phương Đông trên một chuyến tàu băng giá.
Ông thứ hai tiết lộ ông từng bỏ một đứa bé vào trong mấy cái lọ.
Ông thứ ba sẵn lòng mừng lễ tôn vinh thân thể cô hầu bàn.
 
Chẳng có gì bí ẩn. Hôm ấy 24 tháng Chạp. Có những cái cây biết đi.
 
Và nếu như ác quỷ thân hành đến viếng họ và bảo,
“Hãy theo ta, các người sẽ không bị lạc đường,” họ có thể sẽ
Nói gì để đáp lại? Rằng mọi người trên đời ai lo phận nấy?
 
Họ có sẽ tự tiết lộ như những món quà mà họ không mang đến?
 
 
--------------
“Je ne sais quoi” dịch từ bản tiếng Anh “Je Ne Sais Quoi” của Anna Skucińska trong Carnivore Boy Carnivore Bird – Poetry from Poland, do Marcin Baran tuyển chọn, Anna Skucińska và Elżbieta Wójcik-Leese biên tập (Chicago: Zephyr Press, 2004). “Cám dỗ” dịch từ bản Anh ngữ “Temptation” của Jennifer Grotz và Anna Skucińska trong tạp chí điện tử AGNI, số 53 & 54.
 
 
Đã đăng:
 
... hai bàn tay không thể nào ghi nhớ / nét mặt, không thể nào đo được sức vóc của mình, // không thể nào tránh xa và vạch rõ... | tới giai đoạn nào bạn cũng có thể bắt đầu từ đầu: có lẽ / bạn không nghe được tiếng chim thiên đường inh ỏi xuyên thủng / màng tai bạn và không khí, nhưng chúng vẫn hiện hữu / hiện hữu mãi mãi, như bạn... | ... bà đi qua những ngôi mộ dưới mặt trời quê hương của bà / chân bà cháy bỏng trên những đá lát nóng (hai bàn tay bà chìm khuất trên trời cao / không giúp gì được cho bà)... [Bản dịch Hoàng Ngọc Biên]
 
 

Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021