thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Gặp nhau lần cuối | Bệ tượng đài | Thú vật và Linh hồn
 
Bản dịch Hoàng Ngọc Biên
 
 
 
URSZULA BENKA
(1955~)
 
Urszula Benka là một trong những nhà thơ và nhà phê bình văn học nổi tiếng của Ba-lan. Bà sinh ngày 31 tháng 12 năm 1955 tại Wroclaw, tốt nghiệp tâm lý học và văn chương Ba-lan tại đại học Wroclaw. Bà khởi sự đăng thơ trên nguyệt san văn hoá Odra, vào năm 1975; khi còn là sinh viên, và sau đó thơ bà cũng được đăng trên nhiều tạp chí và báo khác ở Ba-lan. Urszula Benka từng đến sống ở Paris đầu những năm 1980 [cho đến1987], rồi New York, và từng theo học Đại học Paris VII, tại Institut Catholique, và Riverside School. Đầu những năm 1990 bà trở về Ba-lan và lấy bằng PhD về ngôn ngữ Ba-lan năm 1993 tại Đại học Wroclaw với luận án về nhà văn Ba-lan đoạt giải Nobel, Henryk Sienkiewicz.
 
Urszula Banka từng nhận học bổng của chính phủ Pháp và chính phủ Saxony ở Đức, và của Bộ Văn hoá Ba-lan, cũng như trợ cấp của Tổ chức các Trí thức Độc lập châu Âu ở Paris, từng là thành viên Pen Club ở New York và hoạt động tích cực trong Hội nhà văn Ba-lan. Ngoài các tác phẩm thơ đã ấn hành: Chronomea [Krakow, 1977 - Giải thưởng thơ Stanislaw Grochowiak]; Dziwna rozkosz [“Niềm vui lạ lung”, Wroclaw, 1978]; Perwersyjne dziewczynki [“Những cô bé hư hỏng”, Warsaw, 1984]; Nic (“Không gì cả”, Krakow, 1984]; Ta mala tabu [“Linh vật nhỏ bé” - Tabu cũng là tên một con mèo trong thơ Benka], Kielich Orfeusza [“Chén Orpheus”, Torun, 2003], bà còn cho xuất bản một tập tiểu luận văn hoá chính trị: Psychomiopolityka [Organon, 2004]. Thơ Benka xuất hiện trong nhiều tuyển tập trên thế giới, được dịch qua nhiều ngôn ngữ: Anh, Tiệp, Phần-lan, Pháp, Đức, Thụy-điển, Nga, Croatia, Hi-lạp... Trong khoảng thời gian 1995-2000 bà giảng dạy tại Viện Mỹ thuật Wroclaw, và là giảng viên tại trường Cao đẳng Nhiếp ảnh AFAs ở thành phố này.
 
Urszula Benka hiện sống ở Katowice, nơi bà cùng chồng điều hành một nhà hát kịch. Ngoài làm thơ và viết tiểu luận, bà còn dịch một số tác phẩm văn học Pháp, và từng đoạt nhiều giải thưởng về thơ, đặc biệt là giải của Polish Culture Foundation.
 
_________
 

Gặp nhau lần cuối

 
Mỗi khi anh ôm em vào lòng, em biết
đây là lần gặp cuối trong đời em
và nó chỉ lặp lại vào những đêm sau đó
trong những gương soi tối đen kéo dài nhiều giờ
 
 
 

Bệ tượng đài

 
Thành phố bị lửa san bằng qua những giai đoạn tiếp nối, những mặt bằng
của nó xếp theo hình kim tự tháp thành một bệ tượng đài,
đứng làm bằng cho sự hiện hữu của những điều không khả hữu.
                                                                                  Thế nhưng Thành phố
thì khả hữu, và vì thế thiêu rụi nó cũng biến thành chuyện không kém khả hữu
thiêu rụi toàn bộ đến nỗi không ai trong bất cứ hoàn cảnh nào người ta
                                                                                    tưởng tượng được
có khả năng xây dựng lại hoặc chỉ đề xướng một sáng kiến
bất chấp thất bại hay thành công
nhằm phục hồi nó.
Tất cả những khả năng riêng, thực hành hay lý thuyết đều cháy rụi
và những phương pháp, hình thức, câu hỏi, giải đáp và hợp lý hoá đều như thế,
cả sự bào chữa Chung cuộc và hậu quả của một đám cháy tai hại đến thế,
và ngay cả những cọc hỏa thiêu cũng cháy rụi.
Sự hiện hữu không thể giảm thiểu của Thành phố cháy rụi giờ đây kiên nhẫn
                                            tồn tại trong cương vị hoàn hảo của Bệ tượng đài
bệ tượng đài từ yếu tính chẳng phải phức tạp mà là thuần nhất,
không mập mờ và không khả hữu và như vậy
không thể bị thiêu rụi.
 
 
 

Thú vật và Linh hồn

 
Linh hồn tôi chỉ là một kẽ nứt
trên mặt đất bị rạn
Tôi chỉ biết là những bờ mép của nó
sắc bén
đụng vào đó những ngón tay ta có thể bị rướm máu
ta có thể chảy máu cho tới chết
ta có thể sẩy chấn ngã trong kẽ nứt ấy
tôi đã trốn nó bao nhiêu lần như một vực thẳm
loá mắt vì khiếp sợ khi nghĩ đến
phải nhìn thấy dưới ấy ở trung tâm trái tim mê lộ
những con mắt trắng lộn tròng
trong cơn ngất ngây tra tấn
sẽ nhìn thấu tôi như một tia thần linh
và những khoé mắt rung động như nơi những vị thánh
bấy giờ tôi leo tuốt trên cao
và trên bờ mép tôi nằm xuống và tôi thở
 
Katowice, 25.02.1993 - 1995
 
 
--------------
“Gặp nhau lần cuối” dịch từ bản tiếng Anh “The Last Meeting” trong Ambers Aglow - An Anthology of Contemporary Polish Women’s Poetry, do Regina Grol tuyển dịch (Austin, TX: Host Publications, Inc. 1996); “Bệ tượng đài” dịch từ bản tiếng Anh “Pedestal” của Donald Pirie trong Young Poets of a New Poland - An Anthology, Forest Books (Paris: UNESCO Publishing, 1993); “Thú vật và Linh hồn” dịch từ bản tiếng Pháp “La Bête et l’Âme” của Jacques Burko trong Panorama de la literature polonaise du XXè sìecle do Karl Dedecius tuyển chọn (Paris: Les Editions Noir sur Blanc, 2000) [2 tập, 1856 trang].
 
 

Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021