thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Nietzsche: sống hạnh phúc quả là một điều ô nhục! | Ít lắm | Vanitas; et omnia vanitas
 
Bản dịch Hoàng Ngọc Biên
 
 
JACEK PODSIADŁO
(1964~)
 
Jacek Podsiadło sinh năm 1964 tại Szewna, trong vùng Kielce ở Ba Lan. Giữa những năm 80 ông làm thợ lò trong một xưởng luyện thép ở Ostrowiec Swietokrzyski, nhưng thời gian 1989-1993 thì thường trực “vô gia cư vô nghề nghiệp”. Ông bắt đầu cho đăng những bài viết của mình vào năm 1984, trên tạp chí bí mật Wolnosc i Pokoj của phong trào Tự do và Hòa bình là nhóm hoạt động đấu tranh cho hòa bình và chống Thiết Quân luật của chế độ quân phiệt ở Ba Lan, nhưng đồng thời từ năm 1991 cũng có bài trên các ấn phẩm khác như tạp chí bruLion chẳng hạn. Những sáng tác thơ đầu tiên của ông như hej!, xuất bản ở Katowice năm 1987, và tiếp theo là kompot z orangutana (Elblag, 1989), rồi tập thơ Wiersz wybrane 1985-1990 (Thơ tuyển, bibLioteka bruLion, 1992), đã góp phần xây dựng một sự nghiệp văn học về sau không ngừng phát triển, đặc biệt kể từ khi ông rời bỏ những công việc lao động nhất thời và về làm hẳn cho Đài Phát thanh Opole Ba Lan, một đài phát thanh địa phương trong vùng Opole, phụ trách riêng một chương trình về dân ca và nhạc đồng quê.
 
Podsiadło thường ghi nhận và chuyển những nội dung kinh nghiệm cuộc sống ngày thường vào những câu thơ của mình, khẳng định tính riêng tư độc lập, đồng thời luôn giữ một khoảng cách (bi quan) đối với những thể chế và lề thói, nghi thức của đời sống tập thể. Câu thơ của ông mang hình thức một nhật ký thơ của đời sống thực, mới tiếp xúc người ta không có cảm tưởng nội dung ấy có thể nằm trong thơ. Chữ của ông trôi giữa khoảnh khắc cụ thể của sự vật và những biến cố — tất cả được thể hiện trong một quá trình chuyển biến nghệ thuật năng động và tài hoa. Là một nhà thơ “lãng mạn” như chính chọn lựa của mình, cụ thể là tính chủ quan, thiên về thiên nhiên vân vân, thơ Podsiadło, với nhiều người đọc, lạ thay, lại mang nhiều hơi thở và ngôn ngữ của những nhà thơ beatnik Mỹ — đặc biệt ở những nội dung phê phán xã hội. Năm 2005, trong một bài viết về thơ Ba Lan, “Five poetry books from 2005” [Năm tập thơ của năm 2005], nhà nghiên cứu Adam Wiedermann đã giới thiệu Boguslaw Kierc với Buổi sáng hôm sau (Biuro Literackie), Agnieszka Kuciak với Những xứ sở xa (Znak, Krakow), Andrzej Niewiadomski với Biểu đồ (Zielona Sowa, Krakow), Eugeniusz Tkaczyszyn-Dycki với Lịch sử gia đình Ba Lan (Sic!, Warsaw) và Jacek Podsiadło với Floe (Znack, Krakow): qua khúc bi thương gồm ba phần viết cho một người anh đã qua đời, tập thơ mỏng Floe đã cho thấy một Podsiadło khác hẳn anh chàng nhà thơ trẻ nổi loạn đầy tình cảm của những tập thơ đầu tay. Tác giả sau nhiều năm cách quãng nay đã là một người “lớn” biết che giấu những nỗi sợ và những ám ảnh thời trẻ tuổi, tuy dưới bề mặt trầm lắng của những câu thơ đẹp người đọc không phải là không nhận ra bóng dáng lẩn quất của những thần linh tàn bạo. Những năm gần đây Podsiadło còn viết phê bình, thời luận và truyện ngắn.
 
Jacek Podsiadło từng đoạt Giải thưởng thơ Georg Trakl năm 1994 và Giải Koscielski năm 1998. Cũng nên ghi nhận một chi tiết cuối cùng: là một trong những nhà thơ nổi bật nhất của thế hệ những nhà thơ trẻ nhất, Podsiadło còn là một trong những người viết hiếm hoi ở Ba Lan không liên hệ một nhóm văn học nào.
 
Những tác phẩm chính đã xuất bản: Thơ tuyển 1985-1990 (Wiersze Wybrane 1985-1990, Warsaw-Cracow: bruLion, 1992); Nhịp tim bất thường (Arytmia, Warsaw, bruLion, 1993); Đất tốt cho thợ nề (Dobra Ziemie Dla Murarzy, Warsaw, Tikkum, 1994); Những ngôn ngữ lửa (Jezyki Ognia, Warsaw-Cracow, bruLion, 1994); Không ai, Thần thánh (Niczyje, Boskie, Warsaw: bruLion, 1998); Thơ tuyển (Wiersze Zebrane, Lampa i Iskra Boza, 1998); Và tôi chạy qua màn sương mù ấy (I ja pobieglem w te mgle, Cracow Znak, 2000).
 
_______
 
 

Nietzsche: sống hạnh phúc quả là một điều ô nhục!

 
Tôi canh chừng các công sự. Tôi mất liên lạc với cái phi hiện thực,
tôi bảo: tôi không quen, tôi không biết, tôi không nhìn, tôi không nghe.
Thế rồi báo chí đưa tin. Tôi chưa hề làm gì cho những kẻ bị hành hạ.
Tôi rất thèm được như những kẻ không tin có vụ Auschwitz.
Mười lăm năm sau Hitler, nhạc rock’n’roll chinh phục thế giới!
Simone Weil thì ở tuổi tôi bây giờ khi bà nhịn ăn tới chết.
 
Môn sử học, sinh học, khoa học “tự nhiên”[*] – chúng ta đã thu xếp mọi thứ
để có thể biện minh. Sự cực khoái, “cái chết nhỏ”, nhưng cái sướng lớn.
Nụ cười ô nhục trên gương mặt người phụ nữ, nụ cười đao phủ trên gương mặt thằng nhóc, hay ngược lại.
– Có cần phải mở ra lại những vết thương cũ? – Tại sao, chúng đã thành sẹo rồi?
Tôi vẫn còn nhớ rõ, tôi từng muốn xuất bản một tập thơ với tựa đề “Không”.
Vậy nên tôi phải lên gân. Chỗ này, tôi sửa lại một que diêm, chỗ kia tôi thêm một cái gai.
 
 
 

Ít lắm

 
Suốt đời tôi tôi quen rất ít phụ nữ.
Có lẽ vì thế mà cô nào đối với tôi cũng đều quan trọng.
Thành phố mênh mông quá. Tôi đưa mắt tìm
những phụ nữ tóc hung, bởi lẽ cô nào cũng nhắc nhớ đến Magda.
 
 
 

Vanitas; et omnia vanitas[**]

 
Bàn chân giữ nhịp đặt lên lưỡi trượt bằng nhôm
của cái nôi David, tôi với bàn tay qua đầu nó lấy cây bút máy
để ghi tên những người đã khuất. Trước tiên là Murka,
nằm chết dưới bánh xe. Kế đến Mini biến mất một cách bí ẩn,
như thể cô nàng bị đám phản gián Palestine bắt cóc. Cách đây mấy
hôm Kosma qua đời, vì bị tiêu chảy, hôn hít tiêm truyền gì cũng vô hiệu,
đến tận cùng hắn cứ vẫn meo meo cầu cứu. Giờ đây lại có tin nữa:
Marylou chết trong một tai nạn môtô, khi chạy đuổi theo gió. Mới đây thôi
tôi còn thấy trong phòng tắm một sợi tóc muộn của nàng. Bây giờ tóc nàng
mục nát đâu đó trên đất Pháp. Thân thể trẻ trung tiêu tan. Cậu con trai ba tháng tuổi của tôi đang
làm vẻ thông thái và ném về phía tôi một cái cười đắc thắng tinh quái.
Hẳn nó đã biết điều gì rồi đấy. Có thể nó là một tên gián điệp Palestine?
 
 
_________________________

[*]“sciences exactes” chỉ những khoa học tự nhiên [naturelles], cùng với toán học.

[**]Trọn câu nói Vanitas vanitatum, et omnia vanitas là những lời than về chốn trần gian đầy dẫy những chuyện hư ảo. [Phụ chú của Tiền Vệ: Câu này trích từ sách Truyền Đạo (Ecclesiastes 1:2) trong kinh Cựu Ước, nghĩa là “Sự hư ảo của những sự hư ảo, và tất cả chỉ là hư ảo.”]

 
 
--------------
“Nietzsche: sống hạnh phúc quả là một điều ô nhục!”, “Ít lắm” và “Vanitas; et Omnia vanitas” dịch từ các bản tiếng Pháp “Nietzsche: c’est une ignominie que d’être heureux!”, “Bien peu” và “Vanitas; et Omnia vanitas” của Jacques Burko trong Trois poètes polonais, Éditions du Murmure, tủ sách “en dehors”, 2009 – giới thiệu ba nhà thơ trẻ Ba Lan: Maciej Niemiec, Jacek Podsiadlo, Tomasz Różycki: trong số những bài thơ / bản dịch Pháp ngữ có nhiều bài chưa hề được công bố, ngay cả ở Ba Lan.
 
 
 
-------------
Đã đăng:
“... Nếu tôi nhìn thấy ánh sáng, tôi đi theo nó. / Tôi không hề chạy trốn bóng tối. / Tôi không hề ném bom, tôi cũng không hề thả hơi độc. / Cái gì đã làm em bỏ tôi? Những tội ác nhỏ của tôi không lên đến nhiều như thế.” ... | ... Cái máy giặt tự động nhai những chiếc tã lót David. / Nó ngừng, rồi lại bắt đầu chạy, chọn những chức năng lập trình / Không một chút dè dặt, như một con người thuần tri thức... [Bản dịch Hoàng Ngọc Biên]
 
Đừng hết yêu anh. Ngay cả một giây cũng đừng. Hãy nghĩ đến anh / ngày & đêm, & trong lúc cầu nguyện. Cho dù phải hụt mất một bữa ăn... | Càng ngày họ càng ít nói & càng ngày càng dùng nhiều nước hoa. / Họ chỉ cần mười lăm phút đồng hồ cho một đêm ái ân. / Những cảm xúc của họ lên cân... | Cỏ nhận những mẩu vụn thuốc lá & những thứ tủn mủn nâu lúc nhúc / trong lều vải người ta ném ra. / Đất, trại mồ côi rộng nhất trong vũ trụ, kiên nhẫn chịu đựng những / cái ngông & trò hề trẻ con của chúng ta... | Ta hạnh phúc biết bao / Ta tám mươi tuổi / Chúa đã quên ta rồi / Ta chỉ cần làm sao cho có giấy đi cầu / để đúng nơi đúng chỗ của nó... [Bản dịch Hoàng Ngọc Biên]
 
 

Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021