thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Ngày đi, Tha hương & những bài thơ khác
 
 
Chân dung NGUYỄN LÂM
(1943-2005)
(ảnh do Lý Đợi chụp, tháng 12/2004)
 
Đôi dòng về Nguyễn Lâm:
Thi sĩ Nguyễn Lâm. Tên thật: Nguyễn Đình Lâm. Tên bạn bè thường gọi: Lâm Man, Lâm Râu… Sinh 18 tháng 8 năm 1943 tại Hà Nội. 1961: Học hết Trung học ở Hà Nội. 1963: Thợ Nhà máy dệt 8/3. 1972: Biên tập Đài phát thanh Giải Phóng. 1975: Biên tập Đài tiếng nói Việt Nam 2 ở Tp. HCM. 1982-1988: Thư ký toà soạn báo Thể dục thể thao Tp. HCM. 1988-1990: Trưởng đại diện tạp chí Thế giới Điện ảnh (Hội Điện ảnh Việt Nam) tại Tp. HCM. 1990: Nghỉ hưu & sống tại Sài Gòn. 2005: Chết vì tai biến tại nhà riêng lúc 17 giờ ngày 12 tháng 8 năm 2005 [nhằm ngày 8 tháng 7 Ất Dậu]. Động quan và hoả táng tại lò thiêu Bình Hưng Hoà ngày 15 tháng 8 năm 2005.
 
Đã dịch nhiều tác phẩm văn học Nga, và một vài tác giả Pháp như G. Apollinaire, Albert Camus, Jean-Paul Sartre, J. Prévert, R. Queneau, P. Éluard… Là bạn văn cùng thời với Lưu Quang Vũ, Thanh Tùng, Hoàng Hưng, Đỗ Chu, Đào Trọng Khánh, Nghiêm Đa Văn, Nguyễn Khắc Phục, Vương Trí Nhàn, Nguyễn Vĩnh, Xuân Quỳnh, Lê Minh Khuê…, nhưng Nguyễn Lâm lại gần như vô danh. Không ai biết ông đã làm bao nhiêu bài thơ; không biết ông đã nhận bao nhiêu lời chê và cả những lời chia sẻ, an ủi lấy lệ; không ai biết ông đã gặp bao nhiêu khó khăn trong đời sống bởi đam mê của mình. Nhưng có một điều chắc chắn mà những người trong giới ai cũng biết, đó là ông vẫn và luôn làm thơ với tất cả ý thức và niềm tin tuyệt đối; dù việc in thơ [chính quy tại Việt Nam] với ông là điều gần như vô vọng. Không nhà xuất bản nào hiểu ông viết gì.
 
Thơ ông gần như là nỗ lực cuối cùng, nhằm xoá bỏ mọi ý niệm về tuyến tính và ngữ nghĩa. Nó đề cao ngữ âm; và cả thủ pháp của phái Siêu thực, làm trùng lấp mọi hình ảnh bình thường (thậm chí bình dị, đơn điệu, mòn cũ…) trong những tình trạng-thái độ bất thường (thậm chí dị thường, lạc nhịp…). Nếu chỉ nhìn ở góc độ đọc hiểu và tiếp nhận, thơ ông có lẽ thuộc dạng khó hiểu và khó kích-ứng người đọc nhất; nếu so với những tác giả cùng thời.
 
Các tập thơ mà ông đã hoàn thành (nhưng chưa xuất bản) là Man (2000), và (2004). Tôi xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả Tiền Vệ chùm thơ mà tôi chọn ngẫu nhiên từ tập Man, tập này gồm 108 bài. Và đây cũng là một trong những lần hiếm hoi mà người thi sĩ này được xuất hiện với tư cách của một tác giả.
 
Lý Đợi
 
__________________________
 
NGÀY ĐI, THA HƯƠNG & NHỮNG BÀI THƠ KHÁC
 
[Chùm thơ kỷ niệm 7 ngày mất thi sĩ Nguyễn Lâm]
 

trái gió

 
một đoá hồng nhung
sắc gầy pha mầu lạnh
chợt buồn quên hát
vườn trắng bóng
bỏ chùa
đời lảng
đầu đường lăn lắt
bụi hè hờm vai
yếm nắng bắc cầu
môi dâng lút vút
từng cánh gai rơi muộn
vơi cười
bình vỡ
dẫu chẻ ly
vu vi
bôi cạn
vào một thuở gió trái
lũ xanh khép mái
dại vại vạt áo nâu
manh nắng tàn
du di trăm ngả
chân xa tao tác
một lối vầy
ai trắng
trăng cay
 
 

chợt nhớ

 
quán sóng
thuyền trên ngực
phố dồn mưa
mây đầy mắt
rét chưa tắt
sao cơn buồn khuya được
trời sa mù
tai buông sóng bạc
từng bước gió thong dong trên lá
thõng nhịp sầu
nhuỵ rơi
lời rứt
trên tường hờ hững nắng gieo men
chút mộng dội
mi xoè bờ vắng
môi tàn
chơ vơ phiến má
dẫu em đi
ly đời còn đó
tiếng cười vụn
vệt buốt heo may
câu hát cũ đi tìm thương nhớ cũ
tóc cứ xoà
biển loã
 
 

tiếng vọng

 
gã khờ sợ tiếng nắng vỡ
xua nắng sang ngang
lang thang
buông dây đàn
vệ cỏ
nỗi buồn không tên
một lần quên
dấu mình men đắng
thầm tiếng vọng
ngày về đêm
cạn bóng
ngọn sóng vương bờ chiều
một lần không quên
mắt lá thành lời ru
nắng vỡ
 
 

hẻm tuất

 
nhầu cái đai
băm bổ cái chiếu
trượt bờ cuống dại cạp diều
nhổm chung
đùm đuề tóc rối
tình vật rau răm ngửa lá cách
mưa rơi theo từng giọt ruỗi
lỏng tay mơ
lá mơ lẽ trắng
xóm giềng xoè sắc mặn
mép chau một ngậy
ý y
một tí trái xoà xoà
ren một vằn cong
vẫn xanh nguyên vòng cấm
vân vê cái móng thời gian
vách chân nhô lên cơn đợi
chả chìa
xỉnh xinh đôi mươi em buông
bĩu cái môi hờn
xếch cái lẹm
và xoạc nắng
bốc hơi một nhan sắc
 
 

bụi mưa

 
mưa chưa mưa mà đường ướt
một trăm lá cỏ lai hàng mi ai
thắt lưng chưa tròn
lá toan ở goá
lá đòi bước đi
trời thì xanh
cỏ thì xanh
buột miệng gọi xanh trong ai
hừng một chiều cấm
trong veo bán nguyệt
và kịp khơi một lá
cởi ra cái áo cho người
xênh xênh
 
 

hoàng hôn

 
chưa môt lần đổ lá
em chớp mắt
ngẩn ngơ manh nắng
ngỡ chiều cỏ may
lao xao phố vắng
khúc hát xưa vu vơ
một vầng lưng tím
người trong tranh gườm đời
dài ba ngấn đợi
ngón tay vân vê kỷ niệm
vệt môi xanh xao
xẩy xơ ký ức
chợt về cơn mưa cuối
sắc son hoá gió
và hoàng hôn không chịu tím
chiều nao gai trắng
ráng phai
 
 

ám ảnh

 
lẵng đẵng
ru thầm tiếng gió
vai đưa
nghèn nghẹn lá trăng
đã có lúc
nhành mây bợt trắng
hoa gầy loang kiếp nắng
thôi xa rồi
lẻ loi bông cỏ
nước mắt nào réo gọi một riềm mi
đàn không dây vêu vao
nát tiếng
nhung vàng buông hết đêm xanh
cứ phai phai một cánh lạc loài
xoa xoã đó
tan đi cơn nhớ
loà xoà cơn mơ
 
 

ly tán

 
mười ba thứ sáu
ban mai nhễ nhại mưa phùn
miệng hè khô khốc
đung đưa tay mượn
nhìn và không nói
đàn bà lòng dạ trái tay
mắt ngước đeo trời
thịt da đang lành mùa ấu
xẻ hai nhịp bước dặm ảo
ai cam ngồi cầm canh năm canh ba giác ba tri
dừa lửa lạc đìa chợ lách
buông câu con mắt
sợi gió không đầy
phe phẩy mấy đoạn nắng tưa
từng bậc thang xa nhau quá
không ai quá giang ai
không đồng sàng
không đeo dị mộng
khẳm chữ nhẫn
bát nước hắt đi
bụi khiêng câu phẫn
vân vê tàn tro câu thương
nghe mưa như nghe tiếng người về
còn gì
những ngói âm dương ngồi xổm
những con số nhấp nhô chân cột
trăng non trên kênh nhiêu không còn mùi non bến đợi
tiếng cười sóng soãi
không còn gì
không còn gì
người đi
 
 

của tin

 
đời cứ vậy
giấc mơ xanh lanh tanh từng giọt
vẫn nhịp buồn ngày ấy
chân không giầy
lời lời nhún nhẩy
eo biển câm
mưa bầm phố thị
nỗi nhớ cây chờ
bồn chồn lá khác
màn trời chợt loé nụ hôn
vòng tay lạ
rềnh môi
trôi mắt
song thưa mấy khúc lạc chèo
những phím đàn tranh loa loá
hoa rộ từng miền da
bến xa
sóng nào trở lại
viền trăng mất
bóng thôi đầy
cho anh khắc trên ngực em
vì sao cuối
mục đồng
 
 

vụt hiện

 
bấn bíu chuyện người
hằng khuya nhợn khúc giao duyên
sót tay nhúm muối lát gừng
đồng sàng tam sinh vương nợ
tranh quên mài
đàn xưa quên ôm bếp vắng
xoe xoa chén bát
mâm rếch đeo cửa sổ
nguệnh ngoạc trên tường bộ xương cá ngừ đại dương
đường cái quan ngoằn ngoèo cơn nhớ
gió bấc mượn thù thì
chiều hôm cay nắng quái
lục tìm tà áo sau mưa
biếc mùa hoa sấu
không đội gạo lên chùa
yếm điều chếp nếp trong gương
em bưng một cái vô tình
môi cỡn cái nó không lẫy
kiếm ai sương tròn võng khói
năm canh chia đời
ba phiến trắng
 
 

tha hương

 
kẻ không nhà
đáo chốn lao xao
vào chân mỉ tên mùa
mềm dáng
dung dăng nhịp về
cười như mưa
vai trần tầm tã
ngón tay bủa dài
chân dài thả cặp
trăng nhom
tét má
ngâu cơn đợi
từng nhịp vai van vỉ
não vòng tay
gió vênh trong tóc
men xanh không định số
 
mấy chìm cho qua
trong như đục
ửng môi
mưa trong mắt
trong veo ly sóng
vo dung nhan
mắt trong như lá
và lá
và mưa
 
 

ngày đi

 
ngày anh ra đi
Hà Nội thu về đẫm ướt
những trận mưa dài
phố vắng
nhà quen
mặt trời gần lại
hương lan đầm tóc rối
anh chỉ nhìn em không nói
câu hát buông thầm… mưa đêm
bây giờ tháng mấy rồi
chân lơ đãng
chiều vương trên thảm cỏ
lá chưa rơi     vàng bờ xanh
ngôi chùa xưa buồn tênh tượng cổ
người người về
sao anh ra đi
 

Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021