thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Chùm thơ
Bản dịch Hoàng Ngọc Biên
 
Lời người dịch:
Allen Ginsberg (Newark, New Jersey 1926 - New York, 1997) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất nước Mỹ nửa sau thế kỷ 20. Ginsberg còn là một nhà thơ hàng đầu của phong trào thơ Beat, cùng với những người bạn như Williams S. Burroughs, Neal Cassady, Jack Kerouac, Lawrence Ferlinghetti, Gregory Corso, Peter Orlovsky, Gary Snyder – có người từng là bạn thời ông học ở Đại học Columbia những năm 40. Tập thơ đầu tiên Howl xuất bản năm 1956, hai năm sau khi ông chuyển đến San Francisco – tiếng hú phảng kháng của thế hệ thanh niên Mỹ những năm 50 – là một trong những tác phẩm thơ được đọc rộng rãi nhất của thế kỷ. Những năm 60 và 70, ông theo học với những giáo trưởng và các Thiền sư Phật giáo, rồi cùng với bạn hữu thành lập và giảng dạy tại trung tâm Jack Kerouac School of Disembodied Poetics (Trường thơ thoát xác) thuộc Viện Phật học Naropa ở Colorado. Ginsberg qua đời tại New York lúc 2:40 sáng ngày 5 tháng Tư 1997, ra đi một cách êm ái, giữa lúc bạn bè người quây quần bên giường ông, kẻ đi ra đi vào phòng pha cà phê, uống rượu - như ai nấy chỉ đến để tiễn ông đi đọc thơ ở một nơi nào đó quanh quẩn trên hành tinh này.
      Nội dung phản kháng trong Howl America rất sớm đã báo hiệu một hình thức thơ Ginsberg, một giọng điệu mang dấu ấn khá rõ từ Walt Whitman với những câu văn xuôi dài, Arthur Rimbaud với kỹ thuật ứng khẩu, Erzra Pound với ý thức sử thi cá nhân, đến William Carlos Williams nhà thơ cách tân đàn anh, mà ông đã gặp và kết thân ở Paterson, New Jersey. Nhưng vẫn phải nhìn nhận thời đại và ý thức chính trị, xã hội đã giúp phát triển rất nhanh nơi thơ Ginsberg một cốt cách riêng, với quyết tâm chối bỏ kiểu thơ câu nệ “thước tấc” và “sắp xếp” không còn phù hợp với thế giới, để hướng tới lời nói trải dài trên trang giấy một cách tự nhiên, bộc trực, không thể hiện giả tạo, nói thẳng và nói thật không vòng vo, nói công khai, có khi mang dáng dấp “xuất thần” của thơ Thiền phương Đông. Thơ ấy, như về sau người ta đã nhận diện chính xác, là thơ không có những biên giới trí tuệ, trong đó quang cảnh nội tâm và những băn khoăn của đời người kết hợp vượt khỏi mọi hình thức vật chất. Không lạ: hoạt động thi ca của Allen Ginsberg suốt một đời gắn liền với những phản kháng chính trị và xã hội, trải dài từ chiến tranh Việt Nam đến những bất công của những chính sách cảnh sát vẫn còn tồn tại trên thế giới, và còn bị áp đặt trên chính quê hương ông. Hãy tưởng tượng nhà thơ xông xáo ấy còn sống đến ngày nay, và được chính quyền dạy bảo “không nên ra đường nếu không là chuyện cần thiết”...
      Ngoài nhiều văn xuôi, nhật ký, kịch, tác phẩm thơ Ginsberg xuất bản rất nhiều, chỉ xin nêu một số phổ biến nhất: Howl and Other Poems (1956), Empty Mirror: Early Poems (1961), Kaddish and Other Poems (1961), Reality Sandwiches (1963), Planet News (1968), Mind Breaths (1978), Collected Poems 1947-1980 (1984), White Shroud (1986), Cosmopolitan Greetings: Poems 1986-1992 (1994), Selected Poems 1947-1995 (1999), Death & Fame - Last Poems 1993-1997 (1999).
 
Xuất xứ những bài thơ dịch dưới đây:
      "Ai sẽ chiếm vũ trụ?" – "Who will take over the universe?" (Planet News, City Lights Books, 1968); "Mặt trời lặn trên tàu S.S. Azemour" – "Sunset SS Azemour" (Planet News, City Lights Books, 1968); "Sau Yeats"* - "After Yeats" (Planet News, C. Bourgois, 1971); "Giáo trưởng"* - "Guru" (Planet News, C. Bourgois, 1971); "Lời chào Fernando Pessoa" – "Salutations to Fernando Pessoa" (Cosmopolitan Greetings – Poems 1986-1992, HarperCollins, 1994); "Mọi ngày" – "Everyday" (Cosmopolitan Greetings – Poems 1986-1992, HarperCollins, 1994) "Lá thu" – "Autumn Leaves" (Cosmopolitan Greetings trong Selected Poems 1947-1995, HarperCollins Publishers, 1996); "Mơ"** - "Dream" (Death & Fame - Last Poems 1993-1997, Harper Perennial, 1999).
 
-----------------------------
* "Sau Yeats" và "Giáo trưởng" đăng lần tiên trên tạp chí Thế giới mới ở Sài Gòn năm 1990.
** "Dreams" là một trong những bài thơ cuối cùng của Ginsberg. Nhà thơ được chẩn đoán viêm gan loại C trước đó mấy tháng. Peter hẳn phải là nhà thơ Peter Orlovsky, người tình muôn thuở của Ginsberg.
 
________________________________________________
 
ALLEN GINSBERG
(1926-1997)
 

Ai sẽ chiếm vũ trụ?

 
Một đêm đông lạnh ngắt
mấy tay mưu phản ngồi trước bàn trong tiệm cà phê
            bàn về chuyện những nhà giam huyền bí
Cuộc Cách mạng ở Mỹ
            đã bắt đầu không là những trái bom mà là những cuộc
                     đình công ngồi tại chỗ trên những tàu ngầm
            trên những hè phố ở Tòa Thị sảnh –
Có bao nhiêu gia đình kiểm soát Hoa kỳ?
            Không cần biết Chính phủ
                     hãy gửi lời phản kháng tới Clint Murchinson
Những người Da đỏ đã thắng vụ kiện Quan tòa McFate
                        Cây xương rồng an toàn ở Arizona –
            Trong phòng ta tên ghiền bệnh hoạn
                                 qua ngày thứ 7 run lập cập
                        Đầm đìa nước mắt, sống lại vào mùa Đông.
Che Guevara có một củ dương vật bự tùa
                                 Hai hòn dái Castro màu hồng –
Bóng ma của John F. Dulles lủng lẳng
                        trên đầu nước Mỹ như miếng vải dơ
            phủ lên buổi hoàng hôn mùa đông,
            Những làn hơi của Khí Vô thức
                            bốc lên từ cái xác của hắn
                   & thôi miên những đấng trí thức Ai cập –
Hắn khủng khiếp nghiến răng & khoanh hai xương
                        đùi vòng quanh sọ của mình
            Bụi tuôn tràn ra từ cái lỗ đít của hắn
                   hai bàn tay hắn đầy vi khuẩn
                        Con sâu bám sát mắt hắn –
            Hắn tuyên bố những cuộc phản cách mạng trong
                                      Thế giới-loài sâu,
                        con mèo của ta đã ói hắn ra
                                                            thứ Năm vừa qua.
& lão Forrestal bay khỏi cửa sổ nhà mình như một con Đại bàng –
Nước Mỹ đang xài tiền để lật đổ con Người.
                                         Ai là kẻ cai trị trái đất đây?
 
                                                        6 tháng Giêng 1961
 
 
 

Mặt trời lặn trên tàu S.S. Azemour

 
Khi ánh hoàng hôn màu cam buông phủ trên một ý nghĩ cũ
Qua bàn tay ta ta nhìn xuống trang giấy
cảm nhận bên ngoài cái con người cuốn gập lạ kỳ bên trong ta
và đi tìm cái đầu của nó – Thiên thần thượng đẳng
bước tới trong ánh chớp sấm sét qua cơn giông ête
Những sứ giả đến từ những Từ cầu râu ria đầu mọc sừng
những đài phát thanh mất dần tiếp nhận những thiên hà xưa cũ
Những bánh xe của Khoảng bao la phản ánh khắp mọi phía
Lời loan báo chuyển nhanh từ cõi Vô hình đến cõi Vô hình
Cái đuôi con rồng thiên thu mất hút trong mắt
Cái chết kỳ lạ, những sinh sôi bị quên lãng, giọng nói cất lên gọi
             từ quá khứ
Tiếng “ta đã là” chào đón chữ “ta là” ngày nay đuợc viết “ta sẽ là”
Những đội quân bước qua rồi lại bước lại bãi chiến trường xưa –
Những thế lực nào đang ngồi dưới những mái lều và lệnh quyết
             Thắng lợi Vĩnh cửu?
Ta ngồi trước bàn làm việc và soạn thảo cái sứ điệp không dứt
             từ chính ta để gửi cho bàn tay ta
 
                                                                Marseille-Tanger 1961
 
 
 

Sau Yeats

 
Bây giờ hương khói tỏa đầy không gian
và khoái cảm nối tiếp khoái cảm
bữa ăn tối trong căn phòng trải thảm,
điệu nhạc giọng mũi phương Đông trong tai tôi,
bạn bè cũ nằm nghỉ trên những chiếc nệm màu sặc sỡ,
tranh xưa treo trên tường, thơ ca cũ
đem ra suy ngẫm lại, chế diễu món đồ chơi huyền bí
bức tượng mạ vàng, một chút trà trên khăn bàn trắng.
 
                                                                   26.4.64
 
 
 

Giáo trưởng

 
Chính mặt trăng đã biến mất
Chính những ngôi sao đã ẩn mình không phải tôi
Chính thành phố đã tan biến, tôi vẫn còn
với những chiếc giày tôi bỏ quên
chiếc vớ tôi không nhìn thấy
Chính là tiếng chuông gọi đâu đây
 
                       Primrose Hill - 5.65
 
 
 

Lời chào Fernando Pessoa

 
Mỗi lần ta đọc Pessoa ta nghĩ
Ta hay hơn ổng ta làm cùng công việc như ổng
nhưng ngông loạn hơn - ổng chỉ là dân Bồ đào nha,
Ta là dân Mỹ Đất nước vĩ đại nhất thế giới
ngay bây giờ Cuối Thế kỷ XX cho dù
Bồ đào nha từng có một vương quốc lớn thế kỷ 15 chẳng sao
giờ đây teo lại thành một Góc của bán đảo Iberia
trong khi New York hãy lấy New York chẳng hạn
dù Mexico City lớn hơn nhưng N.Y. giàu hơn nghĩ đến Empire State Building xem cách đây không lâu là nhà chọc trời cao nhất thế giới –
như thế là ta có thể đã kinh qua 61 năm Thế kỷ XX
trong khi Pessoa thì chỉ thả bộ xuống Rua do Ouro cho đến 1936
Ổng tiếp nhận Whitman còn ta ta tiếp nhận Pessoa bất kể
người ta nói thế nào hơn thế ổng ngủm rồi chẳng làm sao phản đối
 
Ta hơn Pessoa ở chỗ nào?
Nổi tiếng trên 4 Lục địa ta in 25 cuốn sách tiếng Anh ổng chỉ có 3
sách ổng hầu hết bằng tiếng Bồ, nhưng đấy không phải lỗi ổng –
Hoa kỳ là nước lớn hơn
với món nợ 2 Tỷ tỷ chỉ là chuyện ấm ớ thoáng qua,
Trò chơi bẩn Reagan chỉ là chuyện râu ria của Thế kỷ Mỹ
không tiêu biểu Quốc gia ta được Whitman ngợi ca trong Sử thi
cho dù ông âu lo trong Democratic Vistas
Vì là con nhà Phật ta không khoe khoang mình đứng trên Pessoa
Ta khiêm tốn Pessoa gàn dở khác nhau nhiều lắm,
mặc dù có vẻ như đồng tính – xêm xêm với Socrates,
hãy xem Michelangelo da Vinci Shakespeare
và người bạn đường* vô giá Walt của ta
Quả thật thời trẻ ta từng bị nhuốm chút Đỏ đấy chỉ là chuyện vặt
khoa học tự nó tiêu hủy tầng ozone thời đại này dân chống Stalin
gây ô nhiễm toàn trái đất bằng đường lối chống cộng phóng xạ.
Có lẽ ta có nói dối ít nhiều
nhưng ít khi trong thơ, trừ phi để bảo vệ thanh danh cho người khác.
Nói thành thật ta nhắc mẹ ta quá Lộ liễu nhưng ta tin như thế là tốt
Pessoa có nói về mẹ ổng không? một phụ nữ thú vị,
năng lực có thừa đã từng sinh bảy
Alberto Caeiro Alvaro de Campos Ricardo Reis Bernardo Suares &
       Alexander Search tất cả cùng lúc
cọng với Fernando Pessoa chính cống tâm sinh lý bệnh thâm căn
Những nhân cách lẫn lộn vả chăng không nổi tiếng lắm
bên ngoài triều đình Portugal bé tí (mới đây hãy còn là một nhà nước
       cảnh sát)
Hãy để ta đi vào đúng đề tài ủa ta quên nó là gì rồi
nhưng hẳn là ta thích so sánh chàng Ginsberg & chàng Pessoa
người ta tán tụng ở cái xứ Iberia, sách mới được dịch qua tiếng Anh
hiện là ngôn ngữ ngoại giao đứng đầu thế giới kéo dài mãi tới
       Trung quốc
Ngoài ra ổng vốn nhỏ con, chính ổng nhìn nhận trong bài thơ vô tận
       “Lời chào Walt Whitman”
trong khi ta cao 5'7½"
trên mức trung bình thế giới chút đỉnh, không phải không khiêm tốn,
ta nói nghiêm chỉnh về ta & Pessoa.
Dù sao ổng chưa bao giờ ảnh hưởng đến ta, ta chưa hề đọc Pessoa
trước khi ta viết bài Howl vinh danh đã được dịch ra 24 thứ tiếng,
ảnh hưởng Pessoa đến ngày ấy với ta chưa hề là nỗi băn khoăn
Nửa đêm 12 tháng Tư ’88 ta chỉ mới lướt qua cuốn sách của ổng
có thể nó đã ảnh hưởng đến ta khi đọc lướt, chỉ là chuyện hợp lý
thế nhưng đọc một trang sách dịch khó mà chứng tỏ “Ảnh hưởng.”
Trở lại chuyện Pessoa, ổng viết gì thế? Whitman
(Lisbon, biển khơi vân vân) phương pháp dài dòng kỳ lạ,
là chứng tháo lời có người bảo thế – Pessoa Schmessoa.
 
                                                        12, tháng Tư, 1988
 
* "Comerado, I give you my hand! I give you my love more precious than money, I give you myself before preaching or law; Will you give me yourself? Will you come travel with me? Shall we stick by each other as long as we live?"
WALT WHITMAN, Song of the Open Road
 
 
 

Giờ ăn trưa

 
Những con chim líu lo hót ở sân gạch sau Đài phát thanh
dương cầm nhà bên nhặt khoan những hợp êm dịu
Tiếng bánh xe lao tới & xe xả hết ga trên Đường 14
Vui thú biết bao vẫn còn sống ngày thứ Năm đầy mây
Cửa sổ tháng Hai mở trước chiếc bàn trong bếp ăn,
Người Cao niên sẵn sàng đi chụp tia X mạch tuần sau.
 
                                  20 tháng Hai, 1992, 1:15 chiều
 
 
 

Mọi ngày

 
Đức Lama ngồi
       trên giưòng
với cây gãi lưng
bằng tre
hàm răng giả của ngài
để trong một cái
ly nước lớn
phơi nắng trên
bậu cửa sổ.
 
            tháng Tám 1992
 
 
 

Lá thu

 
Tuổi 66 ta mới học cách săn sóc thân thể mình
Thức dậy vui vẻ lúc 8 giờ và viết trong một cuốn sổ tay
đứng dậy trần truồng bên giường để lại một thằng nhóc trần truồng
            ngủ sát tường
chuẩn bị món miso nấm tỏi tây trộn bí cho bữa điểm tâm,
Kiểm soát lượng đường trong máu, đánh răng thật kỹ, chải, xỉa tăm,
            xỉa chỉ, súc miệng
thoa dầu bàn chân, mặc áo trắng quần trắng mang vớ trắng
ngồi cô đơn bên cạnh bồn rửa bát
một lúc trước khi chải đầu, sung sướng thấy mình còn chưa phải là
            một xác chết
 
                                             13 tháng Chín 1992, 9:50 sáng.
 
 
 

 
     Có một chỗ sưng u bên hông phải ta, giấc mơ mới đây – ngay bấy giờ ta hiểu ra ta mang bầu, một bé lớn nguyên con chun ra từ cái bụng bên phải ta trong khi ta nằm bệnh viện với chứng viêm gan hiểm nghèo loại C.
     Ta nằm đấy một lúc, tự hỏi mình phải làm gì, nửa biết ơn, nửa lo lắng. Nó sẽ cần có sữa, nó sẽ cần tập luyện, cần được đưa ra ngoài không khí tươi mát trên xe đẩy cho trẻ sơ sinh.
     Peter ở đấy đang động lòng, hắn sẽ giúp ta, cúi xuống giường ta, hôn ta, hạnh phúc có đuợc đứa bé để chăm sóc. Hắn biết bao trắc ẩn. Ta yên tâm cảm thấy phép lạ nằm trong hai bàn tay đáng tin cậy của Peter – nhưng chà sẽ ra sao đây nếu hắn lại bắt đầu uống rượu trở lại? Không đâu rượu vào sẽ giúp hắn đứng vững. Chăm sóc một đứa bé cách nào đây, ta sẽ làm được gì?
     Lo lắng & thỏa mãn vì chuyện đã là chuyện thật ta từ từ tỉnh dậy, hãy còn nghĩ chẳng hiểu có phải đã xảy ra như thế chăng, ý thức chậm rãi trở về lúc 2:29 phút sáng sớm ta tỉnh dậy hẳn và chẳng có bé con huyền bí nào – xuất hiện tự nhiên, biến mất liền thì –
     Một thoáng hạnh phúc mơ hồ buổi sáng hôm sau, thoáng thích thú ấm lòng cả nửa ngày.
 
27 tháng 3, 1997, 4 giờ sáng
 

Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021