thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Tự do, trong một xứ sở tự do | Giữa chúng ta, có những người không sạch | Hãy đừng viết gì cả... | Ngọn cờ phấp phới trong gió
 
Bản dịch Hoàng Ngọc Biên
 
 
 
JAN POLKOWSKI
(1953~)
 
JAN POLKOWSKI sinh tại Bieroutow, Krakow ngày 10 tháng Giêng 1953, là một nhà thơ, nhà báo. Ông học ngôn ngữ và văn chương Ba-lan tại đại học Jagiellonian, Krakow, và từng là một nhà hoạt động năng nổ trong cánh sinh viên thuộc Công đoàn độc lập “Đoàn kết” ở Ba Lan. Cuối những năm 1970 ông thường xuyên tham gia xuống đường đấu tranh cho tự do dân chủ, là người biên tập cho tờ Signal (1978) và cho các hoạt động của một nhóm xuất bản bí mật sinh viên ở Krakow có tên là KOS, tham gia nhóm xuất bản độc lập ABC... Sau lần bị bắt tù (đêm 13.12.1981) dựa theo “tình trạng chiến tranh” nhà nước vừa ban bố, vì bị coi là “thành phần nguy hiểm”, ông liên tục ra vào các nhà giam, tổ chức nhiều cuộc tuyệt thực trong tù. Được ân xá, ông trở lại công việc biên tập cho tờ Arka (do ông sáng lập và chủ biên – tờ báo phổ biến bí mật [đến 1989 thì bắt đầu xuất hiện công khai] nhưng được coi là hay nhất thời bấy giờ) trước khi trở thành tổng biên tập của nhật báo Czas (Thời báo Kracow) từ 1990. Qua 1991 trở về sau, ông tham chánh theo cánh quốc gia bảo thủ, từng giữ nhiều chức vụ khá quan trọng và bắt đầu “làm quan” ngon lành trong các lĩnh vực thính thị trên cả nước.
 
Cùng với Bronislaw Maj, ông là một trong những nhà thơ Ba Lan có tài và nổi bật nhất của những năm cuối thế kỷ XX. Những bài thơ đầu tiên của Polkowski được đăng lần đầu trên tạp chí Record, đặc biệt là trên tờ đặc san bí mật Zapis (1978); nhưng tất cả những ấn phẩm thơ của ông trong thời kỳ đầu đều chỉ được phổ biến dưới hình thức samizdat. Có thể liệt kê: To nie jest poezja (“Đây không phải thơ’, NOWa, 1980), Oddychaj gleboko (“Thở sâu”, ABC, 1981), Poezja stanu wojennego (Nxb. Puls, London, 1982), Ogień. Z notatek 1982-1983 (“Lửa. Từ sổ tay 1982”), Pólka Poetów (“Các nhà thơ trên kệ sách”, 1983), Wiersze 1977-1984 (“Thơ 1977-1084”, Nxb. Puls, London 1986), Drzewa (“Cây”, Oficyna Literackie, không qua kiểm duyệt, 1987), thi tuyển Elegie z tymowskich gór i inne wiersze (“Những khúc bi ca đồi Tymowo và Những bài thơ khác”, Nxb Znak của giới Thiên chúa giáo, 1990 – riêng “Những khúc bi ca...” được in lại năm 2008, một năm trước các tập thơ Cantus (2009), Cieri (Cái bóng, 2010) và tiểu thuyết Slady Krwi (Những vết máu, 2013).
 
Jan Polkowski từng được trao giải “Foundation Koscielski” năm 1983 và hai Giải văn hoá dành cho các tác phẩm thơ & các công trình biên tập báo Ark năm 1984 của ông, “Huân chương Hiệp sĩ Ba Lan Hồi sinh” do Tổng thống Cộng hoà Ba Lan trao tặng năm 2008, Giải “Andrzej Kiev” cho tập thơ Cantus năm 2010, Huy chương Medalem “Niezłomnym w słowie” (tháng Chín, 2010) dành cho những người từng đấu tranh cho tự do ngôn luận trong những năm 80s thuộc thế kỷ trước.
 
 

Tự do, trong một xứ sở tự do

 
Tôi nằm mơ: người ta thả tôi
ra khỏi tù.
Nhưng tại sao?
Kẻ sát nhân yêu nước vừa chết?
Tôi đã phản bội?
Tôi vượt ngục chăng?
Tôi nhìn vợ tôi đặt một cái đĩa
lên bàn ăn trong bếp
và nhìn con trai tôi chạy
trong cái xà lim chìm trong cảnh âm u
trước bình minh.
 
 
 
Giữa chúng ta,
có những người không sạch
 
Họ chơi bài trên bàn: ông già, xương bọc da,
và một thanh niên với bộ râu. Một người thứ ba
nằm trên giường và đọc sách. Yên lặng
cửa sổ tối mù, chuyện trò bị nghẽn.
Từ một bức ảnh buộc trên vách tường một thiếu phụ
với một cậu bé con trong lòng
đang nhìn họ. Cậu bé con, mải mê suy nghĩ, không nhận ra
bố của mình; cậu vừa đưa tay lên (ở đây bức ảnh
bị mờ) tựa như cậu đang ban phước lành
cho ba người tù
(những người Do-thái và những người Hi-lạp
và toàn trái đất).
 
 
 

Hãy đừng viết gì cả...

 
Hãy đừng viết gì cả. Hãy để người khác nói,
và cho dù họ không khi nào dùng những từ như:
cách mạng, tự do, phẩm giá, chịu nhục
cho dù những cái lưỡi chỉ là thịt
chứ không phải đàn tranh, tranh tường hay gươm đao, hãy để
họ nói. Hãy để máu vận hành
và để lửa lan rộng, hãy để thân cây đoạn đậm màu
hãy để nước và trái cây thơ thẩn.
Đừng ôm trái tim anh vào lòng,
hãy cứ để nó uống và lắng nghe.
 
 
 

Ngọn cờ phấp phới trong gió

 
Chẳng bao giờ thơ sẽ trở lại,
nó sẽ không thoát ra khỏi câu thơ bị tra tấn
của bạn,
 
không thoát khỏi thân xác bạn bị thải bỏ ngoài tuyết,
khỏi nhà giam trong trại tù Lvov,
khỏi những sở chỉ huy Lubianka, ở Moscow.
 
Như một cô gái mong manh
bước sâu vào lòng đất
bên kia Bức tường Berlin
của châu Âu và Thần chết
 
(không để ý có người đang ghi chép
cô nhẹ nhàng lặp lại:
         Người quả thật không cần đến thứ thơ này
         vậy người nên tránh mọi tiếp xúc với những ẩn dụ).
 
 
---------------------
“Tự do, trong một xứ sở tự do” dịch từ bản tiếng Pháp “Libre, dans un pays libre” của Lucienne Rey và Gérard Gaillaguet trong Témoins - Quarante-quatre poètes polonais contemporains 1975-1990 (Les Ateliers du Tayrac, 1996). “Giữa chúng ta có những người không sạch” dịch từ bản tiếng Anh của Stanislaw Baranczak & Clare Cavanagh [Thơ mới Ba Lan, Hoàng Ngọc Biên tuyển dịch và giới thiệu, 160 trang, Nxb. Trình bầy, 1993]. “ “Hãy đừng viết gì cả...” và “Ngọn cờ phấp phới trong gió” dịch từ bản tiếng Anh “Do not write anything...” và “A Flag Fluttering in the Wind” của Donald Pirie trong Young Poets of a New Poland (Forest Books, UNESCO Publishing, 1993).
 
 
 

Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021