thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Kral Majales
 
Bản dịch Hoàng Ngọc Biên
 
 
 
ALLEN GINSBERG
(1926-1997)
 
 

Kral Majales[*]

 
Và mấy ông Cộng sản chẳng có gì đem cho ngoài những cái má phính và những
            cặp kính và những tên công an dối trá
còn mấy ông Tư bản thì đem bom Napalm và tiền bạc trong những cái va li xanh
            tặng đám dân Trần truồng,
và mấy ông Cộng sản tạo ra công nghiệp nặng nhưng trái tim cũng nặng
và những viên kỹ sư đẹp đẽ đã chết hết, các tay kỹ thuật thì âm mưu
            tạo hào quang cho mình
trong Tương lai, trong Tương lai, nhưng giờ này đây thì họ uống Vodka và
            than phiền Lực lượng An ninh,
còn mấy ông Tư bản thì uống gin và whisky trên máy bay nhưng để dân Indian
            da nâu chết đói hàng triệu
và khi những cái lỗ đít đám Cộng sản và Tư bản choảng nhau loạn xạ thì
            con người Công minh bị bắt giam hoặc bị cướp hoặc bị chặt đứt đầu,
nhưng không như Kabir,[1] và cơn ho thuốc lá của con người Công minh bên
            trên những đám mây
dưới ánh nắng chói chang là một lời chào mừng sức khoẻ của trời xanh.
Bởi ta từng bị bắt đến ba lần ở Prague, một lần vì ca hát say xỉn trên phố
            Narodni[2]
một lần bị đánh gục xuống mặt đường nửa đêm bởi một tên cảnh sát râu ria hét
            vào tai ta THẰNG LẠI CÁI,[3]
một lần vì đánh mất cuốn sổ ghi những quan điểm giấc mơ chính kiến về
            cái củ giống bất thường,
và ta bị tống lên máy bay từ Havana[4] bởi mấy tên thám tử đồng phục màu xanh,
và ta bị tống lên máy bay từ Prague bởi mấy tên thám tử mặc bộ đồ doanh nhân
            Czechoslovakia,
Những người chơi bài trong tranh Cézanne, hai cô búp bê lạ mặt bước vào
            căn phòng của Joseph K buổi sáng
cũng bước vào phòng của ta, ngồi ăn ngay tại bàn ăn của ta, và đã xem xét
            mấy chữ viết nguệch ngoạc của ta,
và theo ta ngày cũng như đêm từ các chàng tình nhân của ta đến tận những
            quán cà phê Centrum[2]
Và ta là Vua tháng Năm,[5] tức là sức mạnh của tuổi trẻ tình dục,
và ta là Vua tháng Năm, tức là cần cù trong hùng biện và hoạt động trong
            yêu đương,
và ta là Vua tháng Năm, tức là mái tóc dài của Adam và chòm Râu của
            thân thể chính ta
và ta là Vua tháng Năm, tức là Kral Majales trong tiếng Tiệp khắc,
và ta là Vua tháng Năm, tức là thơ ca xưa của Nhân loại, và có đến 100,000
            người đã chọn tên ta,
và ta là Vua tháng Năm và vài phút tới đây ta sẽ hạ cánh xuống Phi trường
            London,
và ta là Vua tháng Năm, tất nhiên, bởi bố mẹ ta là dân Slavic và ta là
            một tay Do thái theo đạo Phật
tôn thờ Thánh tâm của chúa Christ thân thể xanh của Krishna chiếc lưng cứng
            của Ram
những hạt chuỗi của Chango[6] ở Nigeria ngợi ca Shiva Shiva[7] theo cách tụng
            chính ta phát minh ra,
và Vua tháng Năm là một vinh dự Trung Âu, danh xưng thuộc về ta ở thế kỷ XX
mặc dù có những phi thuyền không gian và Time Machine,[8] bởi lẽ ta từng nghe
            giọng của Blake trong một lần ảo giác
và lặp lại giọng ấy. Và ta là Vua tháng Năm nằm ngủ chung với đám choai choai
            cười giỡn.
Và ta là Vua tháng Năm, bởi ta bị trục xuất ra khỏi Triều đình của ta với Danh dự,
            như ngày xưa,
Để cho thấy sự khác biệt giữa Triều đình Caesar và Triều đình Vua tháng Năm
            của loài Người –
và ta là Vua tháng Năm, mặc dù bị hoang tưởng, bởi Triều đình tháng Năm
            quá đẹp để có thể sống lâu hơn một tháng –
và ta là Vua tháng Năm bởi lẽ ta đưa ngón tay chạm lên trán mình để chào
một thiếu nữ nặng nề rực rỡ có hai bàn tay run rẩy cấ tiếng “xin đợi cho một chút
            thưa ông Ginsberg”
trước khi một cô Công an chìm mập ú kịp chen chân đứng giữa hai chúng tôi –
            ta đang trở lại nước Anh –
và ta là Vua tháng Năm, trở lại thăm nghĩa trang Bunhill Fields[9] và bước trên
            các lối đi trong công viên Hampstead Heath,[10]
và ta là Vua tháng Năm, ngồi trong một chiếc phi cơ phản lực khổng lồ đáp
            xuống sân bay Albion sợ run người
khi máy bay gầm lên để hạ cánh xuống bãi bê tông màu xám, lay động & tống
            hơi ra ngoài, và êm ái đỗ lại dưới những làn mây với một mảng trời xanh
            còn nhìn thấy được.
mặc dù ta là Vua tháng Mười, mấy ông Mác-xít vẫn nện ta một trận giữa
            đường phố và giữ ta thức suốt đêm ở Trạm Công an, theo dõi ta suốt cả
            mùa Xuân Prague, giữ ta trong nhà giam kín và trục xuất ta ra khỏi
            vương quốc của ta bằng máy bay.
Thế nên ta đã viết bài thơ này kẹt cứng trong một chiếc ghế phản lực cơ bay
            giữa lưng chừng Trời.
 
7 tháng Năm 1965
 
 
 
Trái: Minh họa của Robert Lavigne trong Tạp chí EVERGREEN REVIEW, số 40, 1966.
Trên: Allen Ginsberg Vua tháng Năm ở Prague.
Dưới: Các nhà thơ Nicanor Parra [Chile], Miguel Grinberg [Argentina], và Allen Ginsberg ở La Habana, Cuba, 1965.
 
 
_____________________
Chú thích của người dịch:

[*]Kral Majales: Ta là Vua tháng Năm.

[1]Kabīr, hay Kabīra [1440-1518] là một nhà thơ huyền bí, xuất thân là thợ dệt ít học ở Benares, Ấn Độ, thường được so sánh với William Blake. Thơ ông đã được Tagore, Robert Bly, Linda Hess dịch, và có ảnh hưởng lớn đến phong trào Bhakti/Tận hiến. [Từ Al-Kabir (tiếng Arabic có nghĩa là Vĩ đại) là tên vị thần thứ 37 trong 99 vị thần trong kinh Koran.]

[2]Narodni là một trong những đại lộ quan trọng ở Prague; Café Centrum ở trung tâm Prague.

[3]“và ta bị tống lên máy bay từ Havana”: Tháng Hai 1965, tác giả bị trục xuất khỏi Cuba, lên máy bay qua Tiệp Khắc, vì trong chỗ riêng tư ông đã chỉ trích bài diễn văn Fidel Castro đọc ở Đạj học Havana, trong đó người đứng đầu đất nước này đã tố cáo những người đồng tính và ra lệnh làm một cuộc thanh lọc ở trường sân khấu. Ginsberg bị giữ biệt giam ở một khách sạn, không cho đến Casa de las Americas là nơi đã chính thức mời ông tham gia trong ban giám khảo cuộc thi Interamerican Poetry kéo dài một tháng.

[4]Bouzerant: tiếng lóng ở Tiệp Khắc chỉ người đồng tính.

[5]Vua tháng Năm: Lễ hội truyền thống này bị hủy bỏ sau khi Đức chiếm đóng đất nước Tiệp khắc thời trước Thế chiến II. Những người đồng chí Xô viết khi thay thế các anh em Đức quốc xã [1945] đã cho phép tổ chức tưng bừng lễ hội này, nhưng là theo kiểu “trống kèn” vinh danh lao động. Sinh viên Tiệp từng cùng quần chúng tụ tập đông đảo ở công viên và xuống đường biểu tình rầm rộ, ấu đả với cảnh sát, đòi chính phủ phục hồi lễ đăng quang Vua và Hoàng hậu tháng Năm theo nghi lễ truyền thống. Khi Allen Ginsberg có mặt ở Prague [5.1965], ông đã được sinh viên Đại học Bách khoa đề cử, và sau đó được 100,000 người dân quốc gia này bầu làm Vua tháng Năm, mặc dù Bộ trưởng các bộ Văn hóa và Giáo dục phản đối. Một tuần lễ sau, nhà thơ bị bắt biệt giam, cuốn sổ ghi chép ở Prague của ông bị tịch thu, và chính ông bị trục xuất qua Anh – bài thơ, do vậy, đã được viết trên máy bay, trên đường đi London.

[6]Thần Sấm Sét.

[7]Một vị thần cao trọng trong đạo Hindu.

[8]Time Machine: Không thể nói từ này không dính dáng đến tác phẩm viễn tưởng cùng tên của nhà văn Mỹ H.G. Wells [1866-1946], nay đã trở thành danh từ chung chỉ những phương tiện chuyên chở giúp con người thực hiện những cuộc hành trình trong thời gian, và vượt cả thời gian – thí dụ lên một cái “Time Machine”, người dịch ngay hôm nay có thể tìm Allen Ginsberg [1926-1997] rủ đi đọc thơ trong ngày khai trương [18.01.2025] trường Đại học mang tên Đại học Quốc gia Chung Do Kwan ở Tây Triều Tiên.

[9]Bunhill Fields: Khu đất dùng làm nghĩa trang cho những người biệt giáo, nằm ở phía bắc London. Đây là nơi yên nghỉ của nhiều nhân vật nổi tiếng, trong số có mấy nhà văn nhà thơ, nhà thần học không theo quốc giáo là William Blake, John Bunyan, John Wesley, Isaac Watts, và Daniel Defoe.

[10]Hampstead Heath [hay “The Heath”] là một công viên rộng mênh mông ở London, nằm trên đồi cao, cây cỏ xanh tươi, chạy dài từ Hampstead đến Highgate, có nhiều ao hồ, rừng cây, hồ tắm, nơi dân London thường đi bộ hóng mát, mùa hè người ta tổ chức hòa nhạc, cũng là nơi thường lui tới của danh họa John Constable, nhà thơ John Keats – người từng viết tác phẩm bất hủ “Ode to a Nightingale” trong một ngôi nhà nằm ngay bìa bãi đất hoang...

 
 
-----------------
“Kral Majales” dịch từ nguyên tác “Kral Majales” trong tạp chí Evergreen Review, số 40, 1966. Bài thơ được in lại trong Allen Ginsberg, Planet News (San Francisco: City Lights Books, 1968) và Allen Ginsberg, Collected Poems 1947-1980 (New York: Harper & Row, 1984).
 
 
Đã đăng:
 
Theo cách Lalon  (thơ) 
Quả thật là tôi bị kẹt trong thế giới này / Khi tôi còn trẻ Blake từng mách nước cho tôi / Nhiều bậc sư khác đã đi theo: / Tốt hơn nên chuẩn bị cái Chết / Hãy đừng vướng vào sở hữu vật chất / Đấy là khi tôi còn trẻ / Tôi được cảnh báo / Giờ tôi có thẻ chứng minh Dân Già / Và kẹt cứng với một triệu cuốn sách / một triệu ý nghĩ môt triệu / đô la một triệu / mối tình / Làm sao tôi có thể lìa khỏi thân xác mình? / Allen Ginsberg bảo, Ta quả là đang bơi trong vũng cứt... [Bản dịch Hoàng Ngọc Biên]
 
Phố trên  (thơ) 
... “Nếu ta có cách ta sẽ cạo đầu mi và tống mi qua Việt Nam” — / “Vậy thì xin Chúa phù hộ mi” tôi trả lời cái thằng công dân tong teo đội nón vội vàng bước ra cửa tiệm rượu / trên Đại lộ Amsterdam tối tăm ướt át mấy thập niên sau đó — / “Và nếu ta không làm được vậy thì ta sẽ cắt cổ mi” hắn càu nhàu chia tay... [Bản dịch Hoàng Ngọc Biên]
 
Trong một thành phố khác 27 năm trước / tôi nhìn thấy bóng anh in lên vách tường / anh mặc quần có dải đeo ngồi trên giường / bàn tay vô hình đưa lên tới đầu chai thuốc sát trùng / bóng anh đổ xuống trên nền nhà... | Ta hi vọng cái lỗ đít thân yêu của ta sẽ chịu đựng / từ 60 năm nay đại thể nó vẫn OK... [Bản dịch Hoàng Ngọc Biên]
 
Thông điệp  (thơ) 
Từ khi chúng ta thay đổi / giao cấu lộn vòng lao động / khóc than và cùng vãi đái với nhau / ta thức dậy buổi sáng / mắt còn đọng một giấc mơ... [Bản dịch Hoàng Ngọc Biên]
 
... Tôi cứ dông dài như thế nhưng đám người nhà bàn bạc với nhau, / đầu óc để tận đâu, chỉ có một thằng cháu trong nhà / mặt tròn như trăng rằm băm mấy tuổi ngồi banh chân / trên một cái cầu thang giả & vỗ tay tán thưởng lời khen / & sự thích thú của chúng tôi — & thế là chúng tôi ra đi, cả đám / lên đường hướng về Thủ đô hậu hiện đại... [Bản dịch Hoàng Ngọc Biên]
 
Carmel Valley  (thơ) 
Không ai sẽ phải loan báo Thời Đại Mới / Không tên gọi đặc biệt, không cách thế Một Chiều, / không người rao tin Phương Pháp cũng chẳng / có Sứ Giả Rắn Độc Vô Danh, / Không vị Cứu Tinh cần thiết mà chỉ là Tổ Quốc chính chúng ta... [Bản dịch Hoàng Ngọc Biên]
 
Cho một chút sữa keo vàng / ngọt vào miệng ta / Những chiếc quạt quay tít, đèn neon xanh, / Một ông quấn khăn và bộ râu kiểu người Pháp... | Đêm yên tĩnh. Chiếc đồng hồ xưa kêu tích tắc, / Hai giờ rưỡi. Tiếng dế nỉ non / còn thức giấc trên trần nhà... [Bản dịch Hoàng Ngọc Biên]
 
Lần cuối cùng tôi đến thăm chú & và đọc chú nghe / những bài thơ về cái chết của Elanor — giống như / một con chim kên lông xù, trước cái bàn trong / phòng bếp, chúng tôi ngồi khóc... | Giờ đây tôi suy nghĩ vơ vẩn trên gối / tay gác lên đầu / hai mắt nhắm mở to nhìn những bờ vịnh đen của Thời Gian... [Bản dịch Hoàng Ngọc Biên]
 
... Mi hãy uống cái càphê bỏ hết caphêin của mi hỡi Ginsberg tên cựu cộng sản / tên ghiền báo New York Times, hãy vui vì mi không là Trotsky... | Từ khi chúng ta thay đổi / giao cấu lộn vòng lao động / khóc than và cùng vãi đái với nhau / ta thức dậy buổi sáng / mắt còn đọng một giấc mơ... [Bản dịch Hoàng Ngọc Biên]
 
Ta thật may mắn có năm ngón trên bàn tay phải / May mắn đi đái chỉ đau chút xíu / May mắn còn đi ỉa được / May mắn, ngủ đêm trên một chiếc giường cây, ngủ giữa trưa... | Đọc báo No Nature trong nhà vệ sinh / Ngồi xuống, mải mê / lật hết trang này qua trang khác, quên / thời gian, quên cái bàn toạ của ta... [Bản dịch Hoàng Ngọc Biên]
 
Là về  (thơ) 
Dylan là về Cá nhân chống lại nguyên cả tạo hoá / Beethoven là về nắm đấm của một người trong đám mây nẹt chớp / Ðức Giáo hoàng là về phá thai & linh hồn của người chết... / Truyền hình là về người ta ngồi trong phòng khách nhìn ngó đồ đạc nhà người ta... [Bản dịch của Lê Đình Nhất-Lang]
 
Thần Chú  (truyện / tuỳ bút) 
Ngày xưa có một cậu bé sống trong một căn nhà gỗ trên con dốc đi xuống những nhà máy xay ngói đỏ chạy dọc Sông Passaic ở Paterson, New Jersey, gần Great Falls. Cậu bé sống một mình và lang thang mãi tận cây cầu đúc trên con kinh có dòng nước hồng tía đổ từ các xưởng nhuộm tơ lụa ra một cái ao nơi những buổi chiều nắng nóng mùa hè đám con trai bơi lội giữa những vách tường nhà máy... [Bản dịch Hoàng Ngọc Biên] (...)
 
... Vàng, hoa vàng, và / hoa công nghiệp, / cánh hoa xấu xí cứng đầy gai, / thế nhưng vẫn là hoa... | ... Kế hoạch ngũ niên có xài được không? Stalin ác độc cỡ nào? / Ta có phải là một tên Stalin-nít? Một tên Tư bản? Một / tên Tư sản Khó ưa? Một tên Đỏ thối nát? / Không ta là một loài tiên có cánh tím hồng và vầng sáng trên đầu... | Tôi nói về tình yêu chợt đến trong đầu: / Trăng chung thủy, mù quáng mặc dầu; / Nó đi vào ý nghĩ, nó không nói được... [Bản dịch Hoàng Ngọc Biên]
 
ta nhìn thấy cỏ, ta nhìn thấy núi đồi, ta nhìn thấy những xa lộ, / ta nhìn thấy con đường đất, ta nhìn thấy những dãy xe trong bãi đậu / ta nhìn thấy những người lấy vé vào cổng, ta nhìn thấy tiền mặt và séc & thẻ tín dụng / ta nhìn thấy xe buýt, ta nhìn thấy những người đưa tang, ta nhìn thấy đám con cái họ mặc đồ màu đỏ... [Bản dịch Hoàng Ngọc Biên]
 
Trong khi ta đi qua sàn nhà bếp ý nghĩ về cái Chết trở lại, / ngày này sang ngày khác, khi ta thức dậy & và uống nước chanh và nước nóng, / đánh răng & và hỉ mũi, đái vào bồn tiểu một dòng vàng khè... [Bản dịch Hoàng Ngọc Biên]
 
Quả thật là ta viết về chính ta / Có ai khác ta biết rõ hơn? / Có chỗ nào khác gom hoa hồng đỏ máu & rác trong bếp... | Mặt trời lên chói mắt / Còi hụ dội xé trời / Còi taxi dội đường phố / Còi xe hỏng kêu be be be... [Bản dịch Hoàng Ngọc Biên]
 
Ta sẽ lo ổn định với sự Bất tử - / Không phải qua thân xác / Chẳng phải qua đôi mắt / Những ngọn núi cao lấp lánh sao / trăng tàn trên những đỉnh Aspen / Mà là qua những chữ viết, qua hơi thở... | Vùng lên hỡi những kẻ bị giam cầm trong tâm thức / Vùng lên hỡi những kẻ loạn thần kinh trên Trái đất / Sự Tỉnh thức vang ầm Giải phóng / Một thế giới thiêng liêng ra đời... [Bản dịch Hoàng Ngọc Biên]
 
Ngày nay người ta ăn cắp mọi thứ / Người ta ăn cắp bóp ví của bạn, đồng hồ của bạn / Đập bể cửa xe bạn ăn cắp hộp đài radio xe... [Bản dịch của nhà thơ Hoàng Ngọc Biên]
 
Nanao | Ai xơi ai?  (thơ) 
Tẩy não bằng hằng hà những suối hồ trên núi / Đôi chân gột rửa khi đã đi qua bốn lục địa / Mắt không một vẩn mây như bầu trời Kagoshima... | Một con quạ ngồi trên bệ cầu nguyện cột cờ, / con bạn đực cánh đen bước trên bãi cỏ xanh ướt, tìm sâu? ... [Bản dịch của nhà thơ Hoàng Ngọc Biên]
 
Một chiếc piano màu hạt dẻ trong ánh đèn chiếu trắng kim cương / Phòng nghe nhạc thủy quái... // Đêm đen lạnh giữa những cây tùng bách / xe đậu trong bóng tối bên ngoài / sau cổng chính, những ngôi sao tối mù trên / khe núi, một ngọn lửa cháy cạnh / hàng hiên và dăm ba con người mệt mỏi... [Bản dịch của nhà thơ Hoàng Ngọc Biên]
 
"Hãy hiểu rằng đây là một giấc mơ" ("Understand That This is a Dream"), bài thơ Allen Ginsberg (1926-1997) viết trong lần duy nhất ông ghé đến Sài Gòn vào đầu tháng 6 năm 1963... [Bản dịch của nhà thơ Hoàng Ngọc Biên]
 
Hàng triệu người tung hô và vẫy cờ vui mừng ở Manhattan / Hôm qua họ đã trở về với công việc và với chứng thấp khớp / của họ bây giờ là thứ Ba — / Điều gì làm họ ham muốn đến thế đó rốt cuộc là đam mê... [Bản dịch của nhà thơ Hoàng Ngọc Biên]
 
Chùm thơ  (thơ) 
Chín bài thơ của Allen Ginsberg (1926-1997) — một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất nước Mỹ nửa sau thế kỷ 20. Nhà thơ Hoàng Ngọc Biên chọn lựa những bài này từ nhiều thi phẩm khác nhau của Allen Ginsberg và dịch sang Việt ngữ.
 
Vĩnh biệt  (thơ) 
Mẹ ơi / những gì con đã quên không nhắc tới / Mẹ ơi / những gì con đã quên không kể lại / Mẹ ơi / vĩnh biệt / với chiếc giày dài màu đen / vĩnh biệt / với Đảng Cộng Sản và chiếc vớ rách... [Bản dịch của nhà thơ Nguyễn Đăng Thường]
 
Tôi sẽ lặng lẽ đi vào phòng ngủ nằm giữa chú rể và cô dâu / những thân người từ trời rơi xuống trần truồng duỗi ra chờ đợi... [Bản dịch của nhà thơ Nguyễn Đăng Thường]
 
 

Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021