|
CƯƠNG-LĨNH LUẬN-LÍ VÀ PHÊ-BÌNH TRIẾT-HỌC [TRACTATUS LOGICO-PHILOSOPHICUS]: 3.41 - 4.0141
|
|
Bản dịch của Nguyễn Quỳnh
LUDWIG WITTGENSTEIN (1889-1951)
___________
CƯƠNG-LĨNH LUẬN-LÍ VÀ PHÊ-BÌNH TRIẾT-HỌC [3.41 - 4.0141]
Đã đăng: Dẫn Nhập của dịch giả
3.41 Như vậy, điểm quan-trọng trong một mệnh-đề là: tất cả mệnh-đề phụ-thuộc có khả-năng diễn tả cùng một í-nghĩa đều phải có cùng chung mục-đích. Cũng vậy, điểm quan-trọng trong một kí-hiệu là tất cả kí-hiệu phụ-thuộc phải có cùng chung mục-đích.
3.3411 Do đó, tất cả kí-hiệu biểu thị cho một cái tên đích-thực phải có cùng chung mục-đích. Và chẳng có mệnh-đề nào có khả-năng diễn-tả được cái tên.
3.342 Mặc dù khái-niệm có vẻ tuỳ-tiện. Nhưng trong trường-hợp này tính tuỳ-tiện không thể nào có mặt. Khi ta quả-quyết rằng có cái gì tuỳ-tiện, thì tính tuỳ-tiện đó hẳn phải là quan-trong. (Đây chính là í-niệm về yếu-tính).
3.3421 Một lối miêu-tả đặc-thù chưa chắc đã quan-trọng, trừ phi lối miêu-tả ấy hợp-lí. Đây chính là vấn-đề thường thấy trong triết-học. Trong triết-học cái gọi là riêng-tư xem ra không quan-trọng, trừ phi tính khả-hữu của nó cho ta thấy yếu-tính của thế-gian.
3.343 Tính-chất chung của ngôn-ngữ như sau: Định-nghĩa là cách đổi từ ngôn-ngữ này sang ngôn-ngữ khác. [ví-dụ: p :: (p p) = Định-nghĩa Trùng-phức]. Nếu kí-hiệu của một ngôn-ngữ là một kí-hiệu đúng thì ta có thể dùng cùng định-luật để chuyển kí-hiệu ấy sang kí-hiệu khác trong ngôn-ngữ khác.
3.344 Cái gì rõ ràng trong kí-hiệu này cũng rõ ràng trong kí-hiệu khác. Thế mới biết luật cấu-trúc của ngôn-ngữ khi đã hợp-lí giúp ta hoán-đổi dễ-dàng.
3.3441 Chúng ta có thể trình bày tính-chung của í-niệm về lẽ đúng-sai, ví dụ như dấu biến-thiên trong hai mệnh-đề ‘~p’ và ‘p q’ đều có thể được thay thế bằng bất kì dấu nào hợp-lí.
3.3442 Không có cách nào giúp ta phân-tích được lối tuỳ-nghi phức-tạp trong ngôn-ngữ. Cho nên mỗi lần đụng phải vấn-đề này ta phải tìm cho bằng được sự khác nhau của mỗi mệnh-đề.
3.4 Mệnh-đề trình bày vị-trí trong không-gian luận-lí. Chính nhờ các cơ-cấu phụ-thuộc và nhờ mệnh-đề có í-nghĩa nên ta thấy vị-trí hợp-lí này.
3.41 Vị-trí hợp lí chính là kí-hiệu biểu-diễn rõ ràng trong một mệnh-đề.
3.411 Trong luận-lí cũng như trong hình-học, vị-trí là điểm của sự-vật.
3.42 Mỗi mệnh-đề chỉ có một điểm hữu-lí trong không-gian. Nếu không như thế thì mọi sự-kiện sẽ liên-kết với nhau và sinh ra lắm chuyện lạ đời. Trong khung luận-lí có một bức hình hay một mệnh-đề. Khung luận-lí ấy chính là không-gian. Khả năng diễn-tả của mệnh đề nằm gọn trong không-gian này.
3.5 Có nằm gọn trong không gian thì mệnh-đề mới là tư-tưởng.
4. Tư-tưởng là một mệnh-đề có í-nghĩa.
4.001 Ngôn-ngữ là một tập-hợp của các mệnh-đề (die Gesamtheit der Sätze)
4.002 Con người có khả-năng sáng-tạo ra ngôn-ngữ để diễn-tả tư-tưởng. Khi sáng tạo ra ngôn-ngữ, con người không cần biết í-nghĩa của từng tiếng, hoặc âm-thanh. Con người nói tự-nhiên. [Con người chỉ vào sự-vật gọi tên, như: bát, đĩa, mây, trời, sao, biển, cha, mẹ, vợ, chồng, anh, em, con, cháu. Í-nghĩa của những chữ hay tiếng này nằm trong hoạt-động giữa con người. Khi hoạt-động trở thành công-ước, những tiếng ấy có í-nghĩa.] Tiếng nói hằng ngày là hoạt-động ngôn-ngữ rất tự-nhiên của con người. Cho nên, đòi cho bằng được cơ-sở lí-luận của ngôn-ngữ hằng ngày là một điều vớ-vẩn. [Đây phải là kết quả sau khi Wittgenstein phát-hiện rằng “tiếng hót của con chim thật tự-nhiên, không cần cái khung của luận-lí”.] Ngôn-ngữ là cái hình chuyên chở tư-tưởng. Ngôn-ngữ như i-phục che kín thân-thể. I-phục được chế biến theo những mục-đích khác nhau [i-phục khiêu-dâm uốn theo cái dâm của thân-thể. I-phục phong-kín đề cao nhân-cách]. Thế nên, tính yên-lặng của ngôn-ngữ hằng ngày vô cùng phức-tạp.
4.003 Nhiều mệnh-đề trong sách Triết không sai về cấu-trúc nhưng ngớ-ngẩn. Chúng ta chỉ vạch ra những câu ngớ-ngẩn chứ đừng mất thì giờ trả lời ngớ-ngẩn làm gì. Nói cho cùng, sở dĩ triết-gia viết những gì ta không hiểu nổi vì chúng ta không có cơ-sở lí-luận của ngôn-ngữ. (Có phải Đạo-đức quí hơn cái đẹp, hay cái đẹp và Đạo-đức là một?)
4.0031 Phê-bình triết-học là phê-bình ngôn-ngữ (đây không phải cùng í với Mauther). Russell nói, cái thể luận-lí của một mệnh-đề không nhất thiết phải là mệnh-đề có í-nghĩa rõ ràng.
4.01 Mệnh-đề là bức tranh của thực-tại. Mệnh-đề chính là mô-hình của thực-tại do chính ta tưởng-tượng ra.
4.011 Thoạt-tiên, mệnh-đề trông không giống bức tranh thực-tại. Bài văn không giống bản-nhạc. Mẫu-tự không như lời nói. Thế rồi ta thấy, mệnh-đề giống bức tranh vì mệnh-đề dùng kí-hiệu diễn-tả như bức tranh theo lẽ thông-thường.
4.012 Mệnh-đề có dạng ‘aRb’ là một hình ảnh. [Ánh (a) là vợ của Bằng (b). R (liên-hệ) nối kết Ánh (a) và Bằng (b)]
4.013 Khi đi sâu vào iếu-tính của hình-ảnh chúng ta sẽ thấy hình-ảnh ấy không có kí-hiệu bất-thường (Unregelmässigkeiten), như hai dấu # và b trong âm-nhạc. Những dấu # và b chỉ diễn-tả tính riêng-tư của chúng mà thôi.
4.014 Đĩa hát, í-nhạc, ghi-âm, và những sóng-nhạc (die Schallwellen) đều có liên-hệ với nhau để diễn-tả móc nối (Bezeihung) giữa ngôn-ngữ của âm-nhạc và thế-gian. Chúng được soạn ra theo cấu-trúc thông-thường của luận-lí (der logische Bau). [I như hai thiếu-niên trong truyện thần-tiên, có hai con ngựa và những bông hoa Li-li. Trong nghĩa tất-định ( in gewissm Sinne), cả hai là một.]
4.0141 Nhờ một qui-tắc chung, nhạc-sĩ có thể dùng nốt nhạc tạo ra một dư-hưởng khúc. Rồi từ nốt nhạc nghiệm ra một dư-hưởng khúc từ đĩa hát, để cuối cùng lại quay trở về nốt nhạc. Đó là cách sáng-tạo hoàn toàn mới lạ cho các cơ-cấu nội-tại giống nhau (innere Ähnlichkeit) của những thành-phần kể trên. Phương-pháp ấy gọi là luật rọi-phóng (das Gesetz der Projektion) để đưa dư-hưởng khúc vào cách kí-âm của âm-nhạc. Và đây cũng chính là cách thu đĩa nhạc.
[còn tiếp nhiều kỳ]
------------- Đã đăng:
CƯƠNG-LĨNH LUẬN-LÍ VÀ PHÊ-BÌNH TRIẾT-HỌC [TRACTATUS LOGICO-PHILOSOPHICUS]: Dẫn Nhập của dịch giả (tư tưởng) - Nguyễn Quỳnh / Wittgenstein, Ludwig
... Bởi thế, luận-cương này phải đến tay các học-giả trẻ tuổi Việt-Nam, với một ghi-chú là, ‘khác với tôn-giáo, triết-học không có giáo-điều.’ Nếu quả thực có giáo-điều trong triết-học thì đã không còn triết-học, không còn trí-tuệ, không còn tiến-bộ và không còn văn-minh cho nhân-loại... (...)
CƯƠNG-LĨNH LUẬN-LÍ VÀ PHÊ-BÌNH TRIẾT-HỌC [TRACTATUS LOGICO-PHILOSOPHICUS]: 1. – 2.063 (tư tưởng) - Wittgenstein, Ludwig
1. Thế-gian chẳng qua là hoàn-cảnh (der Fall). / 1.1 Chẳng qua chỉ là dữ-kiện mà thôi (der Tatsachen). / 1.11 Dữ-kiện làm thành thế-gian. / 1.12 Qua dữ-kiện ta biết hoàn-cảnh nào có, hoàn-cảnh nào không. / 1.13 Dữ-kiện lù lù trong không-gian (Raum) và nó chính là thế-gian. / 1.2 Thế-gian có nhiều dữ-kiện... [Bản dịch của Nguyễn Quỳnh] (...)
CƯƠNG-LĨNH LUẬN-LÍ VÀ PHÊ-BÌNH TRIẾT-HỌC [TRACTATUS LOGICO-PHILOSOPHICUS]: 2.1 – 3.203 (tư tưởng) - Wittgenstein, Ludwig
2.1 Chúng ta diễn-tả dữ-kiện cho chính chúng ta. / 2.11 Sự diễn-tả này trình bày cặn-kẽ một hoàn-cảnh trong không-gian hợp lẽ, bao gồm cả cái có lẫn cái không. / 2.12 Vậy thì cách miêu-tả (hay bức tranh) chính là cái hình của thực-tại. / 2.13 Vật miêu tả (Gegenstände) trong tranh có những nét tiêu-biểu cho vật đó... [Bản dịch của Nguyễn Quỳnh] (...)
CƯƠNG-LĨNH LUẬN-LÍ VÀ PHÊ-BÌNH TRIẾT-HỌC [TRACTATUS LOGICO-PHILOSOPHICUS]: 3.21 – 3.34 (tư tưởng) - Wittgenstein, Ludwig
3.21 Trong một hoàn-cảnh, hình của vật tương-ứng với hình của kí-hiệu đơn-giản trong kí-hiệu mệnh-đề. / 3.22 Tên tiêu-biểu cho sự-vật trong mệnh-đề. / 3.221 Tôi có thể gọi tên cho sự-vật. Kí-hiệu là biểu-thị của sự-vật. Tôi có thể nói về biểu-thị của sự-vật, chứ không thể diễn ra biểu-thị bằng lời. Mệnh-đề chỉ có thể trình-bày sự-kiện xảy ra như thế nào, chứ không thể bàn đến sự-kiện là gì... [Bản dịch của Nguyễn Quỳnh] (...)
|