thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Ðoạn hát nói trước bản aria | Thắp đèn | Vài lời về thơ mới | Những năm 1960 | Xe đò trong núi đi ra
 
Bản dịch của Lê Đình Nhất-Lang
 
 
TRẦN ĐÔNG ĐÔNG
(1961~)
 
Trần Ðông Ðông (Chen Dongdong) sinh tháng 10 năm 1961 tại Thượng Hải, và gần như cả đời ông đã sống ở đó. Ông tốt nghiệp Ðại Học Sư Phạm Thượng Hải và đi dạy ở trường cấp hai. Chen cộng tác thường xuyên với các tập san thơ ngoài luồng khắp Trung Quốc trong thập niên 1980, và ông là một trong những chủ biên của tờ Khuynh Hướng (1988-1991) và tờ Nam Phương Thi Chí (1992-1993). Mãi tới đầu thập niên 1990, Chen mới cho xuất bản tập thơ đầu tiên. Thơ của ông thường xuất hiện trên những tạp chí văn chương chính thức và những tạp chí văn chương Hoa ngữ ở hải ngoại trong suốt những năm 1990. Năm 1996, Chen được trao giải Hellman-Hammett ở New York, và nhờ đó ông có dịp sang Hoa Kỳ ở vài tháng.
 
 

Ðoạn hát nói trước bản aria

 
Bến tàu cao hơn bờ
Ðể đón phà, một người đưa thư đẩy xe đạp
Ông nâng nhẹ hai tay cầm han rỉ
Dòng sông đang xuôi theo mùa xuân
Sóng cuộn, dơ bẩn. Trong huyên náo,
Tiếng còi tàu làm chựng lại đám muội khói trào dâng
Có dạng một bộ đồng phục đen. Kế đến
Một con dốc ngắn sâu xuống mé sông.
Chiếc xe đạp, như một con chó trong cuộc săn,
Ðâm bổ xuống dốc. Người đưa thư lao
Theo sau, bị kéo tuột đi, hình ảnh ông
Sau mười năm lại một lần biến mất
Vào cái nhá nhem trơn nhợt của buồng lái, nơi ông biến
Thành một Giám Ðốc Phân Khu
Dang chân trên chiếc xe máy, một con cọp
Của định mệnh ông cưỡi và thường bị phạt.
Trong lúc qua sông, ông lấy lại hơi thở.
Tới khi tàu quật mũi vào vật cản cao su bên bờ xa.
Cả con tàu rung lên. Ông lẹ làng đạp nổ máy.
Lá buồm mềm kia, mới thấy đây, qua đôi mắt ông khép hờ
Trong một ánh loé hóa ra đôi cánh trên chiếc mũ bảo hộ
Trù trừ, run bần bật, vọt lên trong cuộc đuổi bắt . . .
Cảnh vật nhạt nhòa. Xe bắn đi.
Ông tăng tốc làm mọi thứ bay qua
Trở thành những mảnh đá vỡ của quá khứ.
Và con đường túa ra trước mặt ông
Là một lá thư bảo đảm ông giao
Một lần, mười năm trước.
 
 
 

Thắp đèn

 
Thắp đèn lên trong đá.
Cho chúng thấy dấu biển in sóng cuồng.
Cho chúng thấy loài cá hoang sơ.
Cho chúng thấy ánh sáng chói lọi,
một ngọn đèn giơ cao trên núi.
 
Thắp đèn lên trong lòng sông.
Cho chúng thấy loài cá đang sống. Cho chúng thấy
thẳm sâu trong thinh lặng nước.
Cho chúng thấy cả hoàng hôn nữa—
một con chim lửa bừng dậy trên rừng.
 
Khi tôi chặn đứng gió bắc
bằng bàn tay, hãy thắp đèn lên.
Khi tôi đứng giữa chốn cheo leo
hãy để chúng tới quanh tôi, cho chúng thấy
những chữ của tôi như ngọn đèn.
 
 
 

Vài lời về thơ mới

 
Ánh sáng trong âm nhạc đã phai mất. Hôm nay
chỉ có
những lữ khách đường dài
lùng tìm tình yêu trong mơ
 
... “Nghệ sĩ tiêu tùng rồi
họ đã lạc đường.” ...
Ðoàn tàu lật đổ
một bàn tiệc của giấc ngủ dưới gầm cầu cạn
 
– Dậy đi mở cửa sổ ra
bọn trẻ hối hả đến trường không thể tưởng tượng được
nhoài người ra đây nhìn chúng
tôi vẫn còn ở trong đêm qua
 
Bên cái giếng sâu của sân trong
mười năm trau luyện ấy của thuật làm thơ
được cột lại trong một cuốn sách
những cánh én đưa thoi mờ ảo xuyên qua
 
Và dưới trăng, Ấn Ðộ Dương
một đảo quốc nhiệt đới
vị thống đốc-thi sĩ đột nhiên bị thức giấc
chân không ông rảo bước ngang thư phòng
 
 
 

Những năm 1960

 
Người vệ binh đỏ băng xéo qua đường. Một toán người khua giáo
trông thật giống đám đất phủ giá ven sông
ngôi sao hạn hán đang lên, đẩy nhẹ cửa ngó vào
bảy con chim chết
cổ đẫm máu, vết mùa hè trên lông đen
từ chỗ này trở ra tôi để ý đến mặt người, những cánh môi của ánh đêm nhạt
những liếc nhìn hiền lành y như của con dê đen
từ giờ này trở đi tôi biết tại sao những hàng cây chắn gió phải được xây lại
đá tảng thì chắc
những cây sồi dõi sát theo biển máu mặn
 
Bảy con chim chôn trong ánh trăng
tôi nhìn kỹ từng khuôn mặt chung quanh đang mải xem
 
 
 

Xe đò trong núi đi ra

 
Xe đò trong núi đi ra, bừng lên hơi nóng
có chăng bao nhiêu năm tháng mọc trên đá đen ấy, từ trên cao
nhìn xuống
con chim ưng, thu hút bởi một con rắn
đang phóng thẳng xuống biển
 
Hôm nay xe đò này chẳng như loài chim bay. Tài xế có việc gấp
lái nhấp nhổm như con hươu đực
có chăng những năm tháng ấy hồi rồng rắn qua sông cả
những con mắt
canh chừng, theo sát con mồi
chờ hồi báo một tiếng súng
 
Một đêm
ôi, cả một đêm
một đêm ròng ngồi bình tâm dưới cội cây
có chăng tôi sẽ nghĩ về chiếc xe đò hiện ra từ trong núi
 
 
–––––––-
Nguồn:
 
Bản dịch tiếng Anh “Recitative Before the Aria” của Joseph Donahue và Chen Dongbiao, đăng trên báo Fascicle, Số 2, Mùa Ðông 05-06:
 
“Thắp đèn” dựa trên những bản dịch tiếng Anh trong bài viết “Postface: On the Translation of The Talisman Anthology of Contemporary Chinese Poetry” của Zhang Er. Trong bài viết vừa kể, đăng ở báo trên mạng CipherJournal.com, chủ biên Zhang Er thuật lại quá trình làm việc cùng với hai dịch giả Chen Dongbiao và Joseph Donahue, trong việc dịch bài thơ “Light the Lamp” và một đoạn thơ khác của Chen Dongdong. Ðịa chỉ tham khảo: http://www.cipherjournal.com/html/zhang_er.html
 
“Words about New Poetry,” “The 1960s,” và “The Bus Comes Out of the Mountains” ở trong thi tuyển 1983-1994 của Chen Dongdong dưới dạng PDF:
 

Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021