thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Một đêm nghe đài trễ | Thi ca | Ở chỗ thử bom | Ði xuyên đêm
Bản dịch của Lê Đình Nhất-Lang
 
 
WILLIAM STAFFORD
(1914-1993)
 
William Stafford — nhà thơ Mỹ, sinh tại Kansas — là một nhà thơ có sức sáng tác khủng khiếp với 67 cuốn sách vừa thơ vừa văn xuôi trong một đời người 79 năm.
 
Tập thơ thứ nhì, Traveling Through the Dark, xuất bản năm ông 48 tuổi, mang lại cho ông giải National Book Award 1963. Trong những danh dự và giải thưởng mà cá nhân ông được trao tặng, có thể kể tới Shelley Memorial Award, Guggenheim Fellowship, và Western States Lifetime Achievement Award in Poetry.
 
Trong Ðệ Nhị Thế Chiến ông là một người phản kháng vì lương tâm (conscientious objector) và đã làm việc trong trại phục vụ công ích trong thời gian này, một kinh nghiệm ông kể lại trong tập hồi ký văn xuôi Down My Heart (1947).
 
Năm 1970 ông trở thành Cố Vấn về Thơ cho Thư Viện Quốc Hội Mỹ (Consultant in Poetry to the Library of Congress, chức hiệu ngày nay gọi là Poet Laureate hay Thi Sĩ Danh Dự). Năm 1975 ông làm Poet Laureate của bang Oregon.
 
Ðược nhiều nơi trên thế giới mến mộ, ông đã đi hàng ngàn dặm mỗi năm để đọc thơ và nói chuyện với những nhà thơ ở khắp nước Mỹ và ở Ai Cập, Ấn Ðộ, Bangladesh, Pakistan, Iran, Ðức, Áo, và Ba Lan. Dù đi nhiều nơi như vậy, ông vẫn dạy tại Ðại Học Lewis and Clark ở Oregon từ 1948 cho tới 1980.
 
Ông mất tại nhà riêng ở Lake Oswego, Oregon, vào tháng Tám năm 1993.
 
____________
 

Một đêm nghe đài trễ

 
Nghe này—đây là một đài xa vắng
còn sống sót trong vũ trụ bao la.
Tôi ở lại đây để đưa bạn thông điệp
viết riêng cho bạn để chỉ dẫn hay an ủi,
nhưng giờ đây thế giới của tôi chẳng còn tôi khao khát
sự bộc lộ trong trắng như tất cả không gian
quanh tôi: tôi muốn nói cái gì là...
 
Nhớ không?—chúng ta từng học cái cách dửng dưng,
chờ trong cuộc bầu hay buổi họp và rồi
đứng về bên thắng, một lãnh tụ
trường tồn, một tổng thống tại vị?
Nhưng có người trong chúng ta ngay hồi đó đã biết tốt hơn
là hãy thua nếu đó là đường mà phe chúng ta chọn
sẽ đi, trong sự thật, đến kết cục.
 
Nó là vầy, sự thật là: nó đang nhìn ra trong khi mọi việc
tiếp diễn; ở trong nơi chốn của chính bạn,
giữa đôi tai bạn; và bất cứ ai
bạn gặp cũng sẽ được gặp bạn
đầy đủ. Khi bạn nghe thấy bất cứ tin gì
bạn phải ghi nhận niềm vui hay nỗi đau
tuỳ ở chốn mà bạn đang thực sự sống.
 
Giờ tôi đang rời xa, với tham vọng này đây:
đọc với ánh sáng đầy ắp của tôi,
viết trên một máy chữ thuỷ tinh trong suốt,
nghe bằng lòng thông cảm,
nói như một đứa bé.
 
 
 

Thi ca

 
Cửa của nó mở gần đây. Nó là một cái miếu
bên đường, nó là một cành hoa trong bãi đậu xe
của Lầu Năm Góc, nó nói, “Hãy nhìn quanh,
hãy lắng nghe. Hãy cảm nhận không khí.” Nó xen vào
các đường dây điện thoại liên quốc gia với một điệu nhạc.
Khi dòng xe kẹt, nó đi ra
và nhảy múa trên cầu. Nếu những người vĩ đại
bị xao lãng bởi danh tiếng họ quên
cái cách cơ bản để thở này
và họ chết bên trong cái vỏ bằng vàng của họ.
Khi đoàn lữ hành băng qua sa mạc
nó là kho tàng bí mật giấu bên dưới các món nữ tੲang.
 
Ðôi khi những người chỉ huy kiểm soát chúng ta, và họ
cố gắng áp đặt nguyên cái vũ trụ của họ,
làm sao để thành công bằng toan tính hàng ngày:
Tôi đâu thể ăn thứ bánh mì đó.
 
 
 

Ở chỗ thử bom

 
Trưa sa mạc một con thằn lằn
chờ lịch sử, khuỷu chân căng thẳng
mải nhìn về khúc quanh trên đường
như có gì đến từ vắng lặng.
 
Nó đang nhìn thấy gì xa hơn
tầm của người, một màn quan trọng
dựng trong đá cho những bản ngã
nhỏ đứng đón ở đầu hậu quả.
 
Chỉ một thềm lục địa trọi trơ
dưới trời hơn bao giờ khinh bạc.
Cho đổi thay, các khuỷu chân chờ.
Mấy bàn chân bám chặt lên cát.
 
 
 

Ði xuyên đêm

 
Ði xuyên đêm tôi thấy một con nai
chết bên đường dọc bờ sông Wilson.
Thường thì nên lăn chúng xuống hẻm núi:
đường hẹp; quẹo tránh càng dễ chết người.
 
Theo đèn xe, tôi chập choạng ra sau
đến bên xác, là nai cái, mới chết;
nó đã cứng lại rồi, sắp sửa lạnh.
Tôi kéo nó ra; bụng nó phình to.
 
Ðụng sườn nó tôi sờ thấy lý do—
sườn nó ấm; nai con nằm trong đợi,
còn sống, nhưng sẽ chẳng được chào đời.
Bên đường lưng núi tôi mãi đắn đo.
 
Xe đổi đèn đậu rọi ra phía trước;
trong thân xe đều đặn máy rù rì.
Tôi đứng trong ánh khói nồng vấy đỏ;
quanh cả bọn thấy núi rừng lắng nghe.
 
Tôi nghĩ nát giùm người—tâm quẹo gắt—
rồi hất nó khỏi đường rơi xuống khe.
 
 
--------------------
Dịch từ nguyên tác tiếng Anh: “Tuned In Late One Night” trong A Glass Face in the Rain (1982), “Poetry” trong Even in Quiet Places (1996), “At the Bomb Testing Site” trong West of Your City (1960), và “Traveling through the Dark” trong Traveling through the Dark (1962). Các bài thơ trên được in lại trong William Stafford, The Way It Is: New & Selected Poems (Saint Paul, MN: Graywolf Press, 1998).
 

Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021