thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
AI LÀ TÔI [11-14]
 
Bản dịch của Nguyễn Đăng Thường
 
 
 
(1922-1975)
 
LỜI GIỚI THIỆU của Jean-Pierre Milelli:
 
Tập bản thảo AI LÀ TÔI của Pier Paolo Pasolini đã được Enzo Siciliano, người viết tiểu sử của ông, phát hiện trong số giấy tờ riêng của ông sau khi ông qua đời. Năm 1980, Enzo Siciliano cho tập bản thảo ra mắt độc giả trên tạp san Nuovi Argomenti dưới nhan đề Poete delle ceneri [Nhà thơ của tro tàn]. Bản dịch tiếng Pháp Qui je suis dựa theo một bản mới do Graziella Chiarcossi, một nhà ngôn ngữ học và người thi hành di chúc của Pier Paolo Pasolini, thiết lập và biên soạn. Với tính cách đó, và xin để qua một bên mọi định kiến về giá trị văn chương, văn bản chưa được in của Pier Paolo Pasolini là một tài liệu đặc biệt và giá trị giúp ta hiểu rõ thêm những mối liên quan giữa cuộc đời và tác phẩm của Pier Paolo Pasolini — nhà văn, nhà thơ, nhà tiểu luận và điện ảnh gia của nước Ý.
 
Bản thảo nguyên tác gồm ba mươi hai trang giấy đánh máy cách dòng đôi, có nhiều chỗ đã được sửa đổi hay gạch bỏ với bút bi. Theo lời nhà viết tiểu sử, Pasolini đã viết phần lớn trong dịp sang New York trong tháng Tám 1966, sau khi trình chiếu cuốn phim Uccellacci e Uccellini [Diều hâu và chim sẻ] tại đại hội điện ảnh Montréal vào tháng Bảy năm ấy.
 
Văn bản này hình như là để đối đáp bằng thơ văn xuôi một cuộc phỏng vấn thực sự hay tưởng tượng. Có thể ý định đã đến với Pasolini sau lúc ông gặp gỡ một phóng viên, hoặc là sau các cuộc đàm thoại có thu ảnh với Jean-André Fieschi (Pasolini, l'enragé / “Pasolini, người nổi giận”) vào tháng bảy 1966, hay cũng có thể là Pasolini đã đơn giản trở lại với phương pháp sử dụng thơ ca như ông đã thực hành trước đó. Chúng tôi đã chọn dịch nhan đề đánh máy và do Pasolini chỉ định trước: Who is me. Một nhan đề thứ hai, Poète des cendres (“Thi sĩ tro than”), viết bút nỉ, ám chỉ nhan đề của một trong các thi tập của ông: Les Cendres de Gramsci.
 
Năm 1966, Pasolini đã lên tới tột đỉnh văn chương của ông ở Ý, nhưng danh tiếng do điện ảnh mang lại cho ông trên thế giới chỉ mới khởi sự. Ông đang tìm cách vượt qua các ranh giới của nền văn hoá cội nguồn và muốn có một quần chúng rộng lớn hơn. Đó là một trong các nhiệm vụ của AI LÀ TÔI. Nhưng năm 1966 cũng là năm nhà thơ bị chứng loét dạ dày và là lần đầu tiên ông viết nhiều kịch bản sân khấu với ý định sẽ cho dàn dựng trình diễn tại New York thay vì tại Ý. Do vậy, hình như sự phát hiện Hoa Kỳ đã là dịp cho Pasolini kiểm điểm lại quá khứ để hướng tới tương lai. Đó là cái lợi ích của tập bản thảo: tuy còn dang dở, nó đã tập trung được nhiều mạch viết của văn nghiệp Pasolini: tiểu sử viết thành thơ, cảnh vật gần như bị kiểu cách hoá khi mô tả, suy gẫm về hình thức và hành ngôn chính trị.
 
Hơn thế nữa, nếu mọi văn bản về tiểu sử tự bản thân thiết yếu là phải dang dở, tuy nhiên trong AI LÀ TÔI như đã có sự báo trước về những cái sẽ xảy ra trong những năm cuối cùng của nhà văn: sự loại bỏ dần dần thơ ca như một thể loại của văn học và sự ưa chuộng điện ảnh; sự phát hiện phong cách viết kịch sân khấu và sự viết-lại các huyền thoại về cá nhân ông; mối liên hệ với báo chí và công lý của quê hương đối với ông ngày càng như là một sự ngược đãi trong đời sống; sự hồ hởi của ông đối với tố quyền dân sự. Trước khi cuộc ám sát đã khiến ông phải lìa đời trong Ngày lễ của những Người Chết vào năm 1975, chúng đã mang đến cho khoảng thời gian kể trên cái hương vị của tro tàn. AI LÀ TÔI cho chúng ta thấy nhà thơ bị chia sẻ giữa sự ham muốn “ném mình vào cuộc chiến” và sự rút lui vào ngọn tháp Chia — phần còn lại của một lâu đài thời Trung Đại — nơi ông ngụ và các nhiếp ảnh gia tới chụp hình ông khoả thân và cô độc, chẳng bao lâu trước lúc ông qua đời.
 
_____________
 
 
AI LÀ TÔI
 
Đã đăng: [1-3] | [4-7] | [8-10]
 
[11]
 
Một hôm, như con cá
vừa thoát lưới, tôi bước trong không khí khô ráo
tới gần một mũi đất vắng vẻ,
ngợp trời
xanh
và tôi sẽ nói rõ cho bạn biết các sự cố đã xảy ra
thực sự là như thế nào.
Hôm đó, tôi bước trên một con đường đất khô,
với đôi tay cũng chẳng kém khô
và não bộ cũng khô, chỉ có cái bụng
là còn linh động
như mũi đất trong màu trời xanh vô dụng.
Huyền thoại thảy đã sụp đổ và tàn tạ
tuy nhiên ở mũi đất chí ít thì cũng có một kẻ
đang sống.
Tóm lại, bị thúc đẩy bởi cái bụng sôi sục và sự cận thị,
trong ánh mặt trời ráo hoảnh,
trên một tí đường hắc ín,
giữa những bụi cây dơ dáy của mùa thu
còn vương một chút vị của mùa hè
tôi tiến về một căn nhà nhỏ duy nhất trong ánh nắng,
với những hình vẽ linh động của những bức tường cũ và những
cái cọc cũ và những chiếc lưới
cũ và những hàng rào cũ, xanh và trắng
- chúng ta đang ở trên nước Ý - và nắng
trộn lẫn với mưa đang dịu dàng thối rữa.
Tại đấy, ở bên trong, có một thằng bé
với cái nhìn lườm lườm, một cái tạp dề
(nếu tôi nhớ rõ),
mái tóc phụ nữ dày,
nước da xanh xao mỏi mệt, một chút thơ ngây
man rợ, trong đôi mắt,
của một ông thánh bướng bỉnh, của một đứa con
hành động như mẹ hiền.
Thực ra - tôi đã nhận thấy ngay tức khắc -
một kẻ đáng thương bị ám ảnh
mà sự dốt nát đã cho những định kiến
muôn đời,
biến đổi sự loạn não nghiêm nhặt chết chóc
của đứa con trai ngoan ngoãn đồng hoá với cha.
Em tên gì? Em đang làm gì?
Em có muốn khiêu vũ không? Em có bạn gái không?
Em kiếm đủ tiền không?
đó là những đề tài mà tôi sẽ trở lại
tôi sẽ thay thế cho sự thôi thúc ban đầu
của cơn dâm ô già nua vào đầu buổi trưa
như một con cá buồn chán,
đang uống một chai Coca-Cola.
Bạn đã xem phim Phúc Âm* của tôi,
bạn đã thấy những khuôn mặt trong phim Phúc Âm* của tôi.
Tôi không thể nhầm lẫn, bởi vì,
đôi khi, trong lúc quay phim,
những quyết định cần được chọn ngay
trong vài khoảnh khắc:
tôi chưa từng nhầm lẫn với những khuôn mặt,
bởi vì sự dâm ô của tôi và sự rụt rè của tôi
đã bắt buộc tôi phải biết rõ những đồng loại của tôi.
Tôi cũng đã nhận ra nó trong vài lúc,
thằng bé khốn khổ bị ám ảnh của căn nhà nhỏ
bị nắng bủa vây.
Đông tới,
và mùa đông đã ở đấy, trên khuôn mặt của nó,
với những bóng tối và những ngôi nhà im lặng,
sự trong trắng của nó.
Tôi cáo từ.
Nhưng không quá nhanh để nó không cảm thấy,
như một phụ nữ,
sự kinh hãi khi trực diện một người cha không giống
những người cha khác
đã tạo dựng thế giới, do sự dễ bảo
của nó.
Này nhé, trước tiên, tôi không biết
cái thế lực nhỏ nào
của mũi đất đó đã bị ruồng bỏ bởi con người và
đã bị tấn công
bởi những tên trưởng giả hậu duệ của La-mã,
những kẻ đần độn và cống hiến cho sự bình thường,
đã tin vào cái chuyện đó.
Và đã tin vào cái chuyện đó là viên thiếu tá
có khuôn mặt bị đè bẹp bởi một định mệnh
xa hoa nghèo nàn.
Đã tin vào cái chuyện đó là một ông toà dự thẩm nào
trong đôi mắt có cùng một cái nhìn
vô nhân đạo và sự khiếp sợ của những ngôi biệt thự nhỏ 1900
của cái thị trấn phi lý đó,
nơi ông ta làm việc.
Đã tin, ông chánh án của phiên toà
đã kết tội nó,
dù chỉ là hai mươi hay ba mươi ngày,
theo chiếu lệ.
Thằng bé với nét mặt xanh xao của một ông thánh đã kể lại
rằng một tên cướp đội mũ đen
đeo găng tay đen
đã bước vô tiệm của nó,
đã nạp một viên đạn bằng vàng vào khẩu súng lục
đã lệnh cho nó phải đầu hàng
và đã mở tủ két ra lấy
khoảng ba đô-la.
Tiếp theo đó, khi ra đi, tên cướp đã doạ nạt nó,
bởi vì nó, kẻ bị hành hung, để tự vệ
đã chụp lấy một con dao.
Tôi đã kể hết những chuyện đó ra
với một bút pháp không thơ mộng
để bạn không đọc tôi
như người ta đọc một nhà thơ.
 
_____________
* Il vangelo secondo Matteo, 1964, (“Phúc âm Ma-thi-ơ”)
 
 
[12]
 
Ngoài ra, tại nước Ý, đã có một kẻ nào đó tên là
Salvatore Pagliuca,
thượng nghị sĩ tôi không biết của đảng phái nào,
ông này đã sống phía Nam vùng Levi,
trong những ngôi làng khô ráo, dưới ánh mặt trời phù sa,
nơi đã mọc lên những cây ô-liu
và những cây đậu kim có hoa vàng tuyệt đẹp.
Tim trống của ô-liu và đậu kim
như tim tôi trống vắng cuộc đời của ông ta,
cái ông Salvatore Pagliuca đó,
đã thấy cái truyện Ăn Mày của tôi, và đã nghe
một tên Maure * có những chiếc răng trắng sáng ngời
như một con sói hung
có sự hung dữ quý báu,
cũng mang tên Salvatore Pagliuco,
Ông ta cảm thấy bị sỉ nhục,
đút đơn kiện tôi, ông ta thắng kiện
và nhận được vài triệu
tiền bồi thường.
Tôi đã kể hết các chuyện đó lại
với một bút pháp không thơ mộng
để bạn không đọc tôi
như người ta đọc một nhà thơ.
 
__________
*Người Hồi giáo mang dòng máu Berber lai Ả-rập, phần đông sống ở tây bắc châu Phi.
 
 
[13]
 
Một hôm vào đầu thập niên 60
(thời điểm mà các chuyện đó xảy ra)
tôi đã trao cho một tiểu vương điện ảnh tên
Amato, và Amoroso, kẻ thông đồng với hắn,
một kịch bản phim mang nhan đề rất đồng nội:
La Ricotta. *
Có thể bạn đã coi phim đó rồi
tại đại hội điện ảnh New York từ mấy năm trước.
Trong kịch bản phim này, tôi
có viết ra như một nhà văn viết,
vài chữ không duyên dáng
và ít nhân nhượng về tôn giáo
của bọn trưởng giả theo đạo Chúa
của quê hương tôi.
Vì một trong các lý lẽ quá nhiều mà bạn,
một nhà phê bình điện ảnh, biết rõ,
phim đó đã rơi tòm xuống nước, Loved qua đời
và Loving
kiện thưa tôi
đã ngăn cản hắn quay phim,
kết tội kịch bản phim của tôi
khiếm nhã đối với khán giả trung bình.
Chẳng khác gì Ông Crawther
đã trao cho Levin
theo lời yêu cầu của Levin,
một tập bản thảo quá hồng, chỉ thích hợp
cho bọn con gái nội trú sinh,
và ông Levin đã thấy nó kém cỏi,
vì những lý do cá nhân,
đã kiện tụng
bởi vì sự thặng dư màu hồng
trong kịch bản phim của Crawther, chàng Crawther hiền lành.
đã cản ngăn hắn thực hiện
cuốn phim hắn muốn quay.
Tôi cũng bị thua trong vụ thưa kiện này,
và tôi không biết đã có bao nhiêu chục triệu
tôi phải bồi thường cho Mr Loving
bị phá sản vì cái bản thảo đầu tiên
của một kịch bản phim không thích hợp với khán giả Ý trung bình.
Chuyện này tôi cũng có kể lại cho bạn nghe rồi
với một bút pháp không thơ mộng
để bạn không đọc tôi
như người ta đọc một nhà thơ.
 
____________
* Ricotta là một loại phô mai của Ý. Amato (được yêu / loved); Amorosa (si tình / loving)
 
 
[14]
 
Như vậy sự ưu ái thơ ca đã bị giảm sút,
mà điển hình là
những tuổi thơ đã tin tưởng ở sự vĩnh hằng; ảo giác
không vùi chôn những chủ nghĩa quốc gia tự tin,
một cách vô ý thức,
(với sự đam mê ấu trĩ) trong tuyệt đối
ngôn ngữ của một quốc gia,
sử dụng nó trong tiếng hát, trong âm nhạc
(hoàn toàn phi lý
khi vừa bước qua quan thuế); ảo tưởng
thậm chí không chôn lấp luận lý
và văn chương cổ điển
(một nhà ngữ học tồi tệ, giữa một từ này và một chữ kia
- cô lập và chìm sâu trong im lặng - ngôn từ
bị gián đoạn,
một ngôn từ đáng thương
không có ý tưởng, không có tôn giáo ngoại trừ sự tôn sùng
tôn giáo rất tôn giáo tính, cuối cùng,
vẫn có thể tái tạo thơ ca trong văn chương).
Tuy thế, không chỉ có sự suy yếu
về mối cảm tình đối với loại thơ ca đó,
vì nó chỉ là cái lịch sử bé nhỏ của thời đại nó
(tôi đã bị vướng trong đó,
không thể rút ra một khuôn mặt
dù xa lạ nhất,
hay một cuốn sách, dù dễ bị lãng quên nhất),
mà đối với thơ ca.
Nghĩa là không phải chính nó, thơ ca, mới đáng kể.
Chí ít là nếu nó đã được cảm nhận như thơ ca.
Ngôn ngữ của hành động, của đời sống
đang hiện hữu
quyến rũ hơn gấp trăm gấp ngàn lần!
Chính nó đang tạo dựng lại
- khi chỉ vừa mới khép lại -
từ một cuốn thơ:
nó ở trước và ở sau:
ở giữa có một phương tiện để biểu hiện
có thể nhắc nhở tới thơ, thế thôi. Công việc của phù thủy.
Chỉ nhờ có ngôn ngữ
của cái vô-ngã để diễn tả
bởi một quyền lực ngang bằng, mà, sự khéo léo sẽ cung cấp
cho thi sĩ
một sức mạnh đồng hạng với cái tôi.
Nhưng chức năng của thi sĩ với tư cách đó
càng lúc càng không đáng kể.
Thực sự ta có cần
đem cái ngôn ngữ sống động ấy
vào một ngôn từ theo quy ước đó
để giúp nó tự giải thoát và trở thành
chính nó, sống động, nơi người đọc?
Hắn, nhà thơ, hắn không biết đối thoại với thực tế hay sao?
Cái giá trị khiêm tốn của thi sĩ
phải chăng là để gợi lại cái thực tế đó như mắt hắn đã nhìn thấy?
Nhưng chuyện đó có nghiêm trong thật không?
Tại sao thi sĩ không ngắm nhìn trong im lặng?
- thánh nhân, thay vì văn nhân?
Nhưng mà, giới trẻ chúng đang làm gì nhỉ,
trong những buổi tối ở tỉnh lẻ,
và thậm chí ở những đô thị lớn,
khác hơn là vẫn nói chuyện văn chương?
Bước những bước phiến loạn, dọc theo những con đường
vừa phát hiện,
trĩu nặng bao ý nghĩa thầm kín và lịch sử?
Phát hiện các nhà văn,
như các gái điếm và các bí ẩn
của một khu phố, hay các thói quen của một đời sống xã giao
từ nay đã thuộc về chúng,
trong lúc chúng vẫn thuộc về giới cha chú
(có thể vì lẽ đó nên đang chuẩn bị một cuộc chiến tranh
để đưa chúng đến với cái chết)?
 
[còn tiếp nhiều kỳ]
 
 
-----------
Nguồn: Pier Paolo Pasolini, Qui je suis - Poeta delle ceneri, bản tiếng Pháp do Jean-Pierre Milelli dịch, giới thiệu và chú giải (Paris: Arléa, 2004).
Người dịch ghi thêm một con số trên mỗi bài thơ, và bổ sung vào phần chú thích của nhà xuất bản dưới các bài thơ.
 
 
 
Đã đăng:
 
AI LÀ TÔI [8-10]  (thơ) 
... Trong các tác phẩm ấy tôi đã giả vờ chối bỏ sự dấn thân, / bởi vì tôi biết dấn thân là một điều không thể né tránh, / nhất là hôm nay hơn lúc nào hết. / Và hôm nay, tôi sẽ nói với các bạn rằng / không những ta cần phải dấn thân / trong cách viết, / mà cả trong cuộc đời nữa... Tập bản thảo AI LÀ TÔI của Pier Paolo Pasolini đã được Enzo Siciliano, người viết tiểu sử của ông, phát hiện trong số giấy tờ riêng của ông sau khi ông qua đời. [Bản dịch tiếng Việt của nhà thơ Nguyễn Đăng Thường]
 
AI LÀ TÔI [4-7]  (thơ) 
... Tôi đã cảm nhận tình cảm của một người Da Đen / ở Chicago: / sự kinh sợ. / Thế nhưng tôi đã chóng quên, / và tất cả những kinh sợ / đã trở thành một vật duy nhất / ở trong tôi và ở trên tôi: một vật rất đặc biệt, / cái vật đó . / Do vậy tôi đã để nó bên cạnh và hứng chịu nó / trong lòng: / và nó sẽ trở thành một cái ung nhọt, / mà sớm hay muộn gì tôi cũng phải chết vì nó... Tập bản thảo AI LÀ TÔI của Pier Paolo Pasolini đã được Enzo Siciliano, người viết tiểu sử của ông, phát hiện trong số giấy tờ riêng của ông sau khi ông qua đời. [Bản dịch tiếng Việt của nhà thơ Nguyễn Đăng Thường]
 
AI LÀ TÔI [1-3]  (thơ) 
... Tôi vẫn khóc, mỗi khi nghĩ lại chuyện cũ, / mỗi khi nghĩ tới Guido em tôi, một gã du kích / bị các gã du kích cộng sản khác thủ tiêu / (nó thuộc nhóm Hành Động / do chính tôi đã khuyên nó gia nhập; / nó đã khởi sự cuộc Kháng Chiến / với tư cách một người cộng sản)... Tập bản thảo AI LÀ TÔI của Pier Paolo Pasolini đã được Enzo Siciliano, người viết tiểu sử của ông, phát hiện trong số giấy tờ riêng của ông sau khi ông qua đời. [Bản dịch tiếng Việt của nhà thơ Nguyễn Đăng Thường]
 
Bạn đi đâu qua những đường phố La-mã / trên xe buýt hay xe điện / chật ních những người trên đường về nhà?... | Tôi lao động suốt ngày như một nhà tu / Và ban đêm tôi lang thang như một con mèo rượn / chạy tìm tình yêu... Tôi sẽ thỉnh cầu / Giáo hội, xin cho tôi được phong thánh... | Người ta sẽ ca hát trong lòng đất nó, / hàng triệu người chết trong lòng đất nó, / ta sẽ ca hát trong lòng đất nó?... | Hãy đến lắng nghe những dòng sông của lòng con, / Hãy đến lắng nghe những bông cúc của lòng con, / Hãy đến lắng nghe, mẹ ơi, tiếng nói ấp úng / của lòng con đang bay bổng, thưa mẹ!... [Bản dịch Hoàng Ngọc Biên]
 
... Ta không một đồng xu, ta chỉ làm chủ / Những sợi tóc vàng của ta trên sông Lemene / Đầy những con cá mượt mà... | ... tôi sẽ ngã xuống chết / dưới mặt trời gắt, / vàng hoe và cao, / và tôi sẽ nhắm mắt, / để bầu trời lại với vẻ rực rỡ của nó... | ... Em là một cánh hồng sống mà không nói. // Khi sâu thẳm trong ngực em / Một giọng nói ra đời, / Thì em câm lặng... | ... Chúng ta sống sót: và ấy là sự lẫn lộn / của một cuộc đời hồi sinh bên ngoài lý luận... [Bản dịch Hoàng Ngọc Biên]
 
 

Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021