thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Hướng tới một Nghệ thuật Thơ I | Concorde | Những người lạc quan | Tội nghiệp cái thằng | Giống người
Bản dịch Hoàng Ngọc Biên
 
RAYMOND QUENEAU
(1903-1976)
 
Raymond Queneau (1903-1976) là một nhà văn Pháp mà tác phẩm mang dấu ấn nhiều tìm kiếm về bút pháp cũng như về chính ngôn ngữ. Ra đời ngày 21.2.1903 tại Le Havre trong một tầng lớp khiêm nhường — bố mẹ là những người bán hàng xén – ông lên Paris (1920) học triết và khoa học. Năm 1924 ông tham gia nhóm siêu thực ("Récit de Rêve" xuất hiện trên Révolution Surréaliste năm 1925; và cho đến 1928, tên Raymond Queneau xuất hiện trên nhiều bài xã luận và tuyên ngôn của nhóm này), nhưng khoảng 5 năm sau ông tuyệt giao với André Breton, đi chung với một nhóm “ly khai”, và những tác phẩm đầu tiên của ông nếu mang khá rõ ảnh hưởng của phong trào này, nói cách khác là nền tảng được xây dựng trên tinh thần siêu thực, thì cũng rất rõ ràng đã hướng tới những bước xa hơn. Ông làm báo trong những năm ba mươi, đến 1938 chuyển qua làm cho Nhà xuất bản Gallimard, và ba năm sau là tổng thư ký của cơ sở này, trước khi được giao chức vụ Giám đốc Tủ sách La Pléiade và phụ trách biên tập những bài giảng về Hegel của giáo sư Alexandre Kojève, từng là thầy dạy của ông và là người đã đã có ảnh hưởng lâu dài nhất trong sự nghiệp viết lách của ông.
 
Queneau bắt đầu viết Le Chiendent trong một chuyến du lịch Hy lạp, cuốn tiểu thuyết ra mắt năm sau đó và đoạt Giải Prix des Deux Magots (1933). Mười năm tiếp sau “thời kỳ siêu thực”, ông miệt mài tìm kiếm và vạch một con đường riêng, thụ giáo Kojève ở École des Hautes Études (cho đến 1939), bắt đầu quan tâm đến Toán học, thực hiện những chữ hình (pictogrammes) và thiết lập một kiểu “đảo ngược” những nguyên tắc siêu thực trong sáng tác, dành cho việc xây dựng tiểu thuyết một vai trò hàng đầu, nhưng quan trọng hơn cả là đặc biệt chú trọng ngôn ngữ – không như một thiết bị chuyển tải ngữ nghĩa, mà ngược lại như một dụng cụ bán khoa học. Kinh nghiệm cuốn Le Chiendent, tiểu thuyết (gồm 91 phần, theo Queneau, vì 91 là tổng số của 13 số đầu tiên, cũng là tích số của hai số ông đặc biệt thích là số 7 và số 13) đặt nền tảng trên những câu thúc hình thức, với câu chuyện xoay tròn, kết thúc bằng chính câu khởi đầu truyện, đã mở ra nhiều chủ đề cho những cái viết sau này của ông (ngoại ô Paris, ám ảnh chiến tranh, những nhân vật tầm thường...): Gueule de pierre (1933 - tự truyện bằng thơ), Chêne et Chien (1937 – tiểu thuyết có kích thước “tự truyện” bằng thơ); Les enfants du limon (1938 - tiểu thuyết); rồi đến Un rude hiver (1940), Pierrot mon ami (1942), Les Ziaux (1943), Loin de Rueil (1944). Nổi tiếng hơn cả là cuốn Exercices de style (1947), kể lại chín mươi chín lần cùng một giai thoại theo những nguyên tắc thuật chuyện, ngữ vựng và giọng điệu khác nhau (từng được đạo diễn Yves Robert đưa lên sân khấu La Rose rouge (4.1949), do nhóm Les Frères Jacques trình diễn). Trong thời kỳ kháng chiến, không những thường xuyên tỏ thái độ khá triệt để trong nhiều sinh hoạt văn học, ông còn hợp tác xuất bản nhiều sách báo bí mật, tham gia lãnh đạo Ủy ban Toàn quốc các Nhà văn. Sau Giải phóng ông lui tới khu Saint-Germain des Prés và thường có mặt trong những sinh hoạt văn nghệ, và là hội viên Hội Toán học Pháp (1948). Năm 1951, ông thực hiện một cuốn bách khoa tự điển các nhà văn nổi tiếng, được bầu vào Viện hàn lâm Goncourt, tham gia các ban giám khảo (Liên hoan điện ảnh Cannes 1952), đồng thời viết kịch bản, đối thoại, hoặc lời bình cho điện ảnh (phim của Luis Buñuel, René Clément, Pierre Kast...), viết lời ca khúc (Si tu t’imagines, nhạc Kosma, do Juliette Gréco hát), và khởi sự thành lập nhóm Club des Savanturiers (với Jean Queval và Boris Vian), đồng thời nhận lời đứng đầu công việc soạn thảo bộ bách khoa La Pléiade (xuất bản 1956). Sau nhiều chuyến đi xa: Hy lạp, Hoa kỳ, Mexique, Liên xô vân vân, đem lại cho ông không ít những cái nhìn mới bổ sung cho những sáng kiến tìm kiếm hình thức của riêng ông, sự kiện cuốn Zazie dans le métro (1959) của ông được đưa lên sân khấu và bộ phim cùng tên của đạo diễn Louis Malle ra mắt công chúng năm sau đó là một bước thành công rất đáng kể. Thế nhưng hoạt động thật sự độc đáo của Raymond Queneau xảy ra vào năm 1960, năm ông cùng François Le Lionnais thành lập OuLiPo (Ouvroir de Littérature Potentielle) qui tụ nhiều nhà văn và nhà toán học (sau này có th ?eorges Perec, Jacques Roubaud và Italo Calvino), hoạt động như một nơi tìm kiếm và thể nghiệm những hình thức, nguồn gốc phát minh nhiều gò bó mới trong văn chương [như trường hợp phương pháp S+7, thay thế mỗi danh từ trong bản văn bằng chữ thứ bảy tiếp theo trong từ điển: bản văn "La Cimaise et la Fraction" nổi tiếng của Queneau là một biến dạng của "La Cigale et la Fourmi" của La Fontaine]. Năm 1961, Loin de Rueil của ông được chuyển thể và đưa lên sân khấu ca kịch Théâtre National de Paris, đồng thời ông cho ra đời tuyển tập thơ Cent Milles Milliards de poèmes dựa trên trò chơi lắp ghép để tạo một tổ hợp vô tận những câu thơ của mỗi bài thơ.
 
Sau các tiểu thuyết Les fleurs bleues (1965), Le vol d’Icare (1968), các tập thơ Courir les rues (1967), Battre la campagne (1968), Fendre les flots (1969), Morale élémentaire (1975) và Une histoire modèle (tạp luận, 1966) cùng với Le voyage en Grèce (1973) và La littérature potentielle (nhiều người), quan trọng hơn cả là cuộc Triển lãm toàn bộ tác phẩm Raymond Queneau ở Le Havre năm 1973, và không kém thú vị, có lẽ phải kể cuộc triển lãm tranh gouaches của ông (1928-1948) vào năm 1949, và một bài viết trao đổi mang tên "Théorie des nombres sur les suites sadditives", trình bày trước Viện hàn lâm Khoa học vào tháng Tư 1968. Raymond Queneau qua đời ngày 25 tháng 10 năm 1976, trong một nhà thương ở Paris.
 
Những tác phẩm xuất bản sau khi R. Queneau mất: Contes et propos (1981), Journal 1939-1940 (1986), Œuvres complètes 1 và 2 (nxb La Pléiade, 1989 và 2002), Gustave Le Bon (1990), Traité des vertus démocratiques (1993), Nhật ký (1996).
 
________________
 

Hướng tới một Nghệ thuật Thơ I

 
Một bài thơ thật ra cũng chẳng có gì
một tí hơn so với trận gió xoáy ở Antilles
một tí hơn so với trận bão ở Trung Hải
so với một trận động đất ở Đài Loan
 
Một trận lụt trên sông Dương Tử
chỉ một lần thôi là vùi dưới nước cả trăm ngàn người Trung quốc
 
vụt một cái
thế mà nó cũng chẳng làm đề tài cho một bài thơ
Chẳng có gì
 
Trong làng ta mọi người thích loay hoay
quanh việc xây một ngôi trường mới
chúng ta sẽ bầu một xã trưởng mới và thay đổi những ngày họp chợ
chúng ta trước đây ở giữa trung tâm thế giới còn bây giờ thì
chúng ta ở gần dòng nước biển đang gặm nhắm chân trời
Một bài thơ thật ra cũng chẳng có gì
 
 
 

Concorde

 
Người thu tiền vé là một người da đen
Tôi hỏi y: “Bao nhiêu vé”
đến Concorde
Y trả lời tôi
nhưng tôi không hiểu
Tôi lại hỏi y: “Bao nhiêu
vé đến Concorde”
Y trả lời tôi
nhưng tôi vẫn không hiểu
Tôi lại hỏi y một lần nữa
“Bao nhiêu vé đến Concorde”
Bấy giờ anh chàng da đen hắn ta làm mặt giận dữ
hắn đảo hai con mắt và hắn hét lớn:
“Ba!
— Ồ! tôi bảo hắn, chắc ông không ăn thịt tôi chỉ vì có thế”
 
Không, tôi không nói vậy
bởi lẽ người ta cấm đùa cợt
với các nhân viên R.A.T.P [1].
 
 
 

Những người lạc quan

 
Những người lui tới khu Lutèce [2] thường nước da rất ngăm
Những thức uống được thay mới mỗi giờ đồng hồ
tấm biển treo ghi rõ
Trong ca bin điện thoại một khách hàng viết:
Châu Phi sẽ lên Mặt trời năm 1967
 
 
 

Tội nghiệp cái thằng

 
Toto có cái mũi dê và bàn chân heo
Hắn mang tất
trong những hộp diêm
và chải tóc
với một con dao cắt giấy bỏ đi
Nếu hắn mặc áo quần thì vách tường ngả màu xám
Nếu hắn đứng dậy cái giường nổ tung
Nếu hắn tắm thì nước vung vẩy
Lúc nào hắn cũng có trong túi
một cái dốc túi
 
Cái thằng tội nghiệp
 
 
 

Giống người

 
Giống người đã cho ta
quyền được chết
nghĩa vụ làm người văn minh
lương tâm nhân loại
hai con mắt vả chăng làm việc không ngon lắm
cái mũi ngay giữa mặt
hai chân hai tay
lời nói
giống người đã cho ta
cha ta và mẹ ta
cả anh em có lẽ ai mà biết
cả một đống anh em họ
và những ông cố ông vải
giống người đã cho ta
ba năng lực
tình cảm trí tuệ và ý chí
mỗi thứ đều cho có chừng mực
giống người đã cho ta
ba mươi hai cái răng một trái tim một lá gan
mấy thứ nội tạng và mười ngón tay
giống người đã cho ta
những thứ ta phải tự cho là thoả mãn
 
 
"Hướng tới một Nghệ thuật Thơ I", "Cái thằng tội nghiệp" và "Giống người"
dịch từ nguyên tác "Pour un Art Poétique I", "Pauvre type" và "L’Espèce humain",
trong Raymond Queneau, L'Instant fatal (Gallimard, 1948);
"Concorde" và "Những người lạc quan" dịch từ nguyên tác "Concorde" và "Les Optimistes",
trong Raymond Queneau, Courir les rues (Gallimard, 1967).
 
---------------------------------
Chú thích của người dịch:
[1] Régie Autonome des Transports Parisiens.
[2] Lutèce là khu phố nằm trong Quartier Latin, Paris.
 
Tranh gouache của Raymond Queneau

Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021