thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
TẠI TIỆM KẸO MỨT (在 糖 果 店) [3]
 
Bản dịch của Trúc-Ty
 
 
 

叙事

 
这家有五个女儿和一个
过了中年的父亲。我常常看到
他拎着空垃圾桶站在路口
 
他的女儿如放飞的小鸟
在小镇的舞厅和宾馆前笑。而他的妻子
我从未见过, 她可能
象只母鸡。羽毛上闪动整齐
内敛的光芒
 
有时他伫立在阳台上
象是在守候。在飘动着的
五彩衬裙和他自己朴实的外套后面
我爱上他家最小的哪个
直到她们不断离开
直到我忘了她的美貌和坏名声
 
如今。他象是消失了,看不见了
仿佛五盏照着他的灯被移开
他暗了下来
 
 

thuật sự

 
nhà ấy có năm cô con gái và một
người cha đã qua tuổi trung niên. tôi thường nhìn thấy
ông xách cái thùng rác không đứng ở góc đường
 
con gái ông như bầy chim non sổ lồng
cười trước sàn nhảy và khách sạn trong thị trấn. còn vợ ông
tôi chưa từng thấy lần nào, có thể bà
giống con gà mẹ. trên lông vũ chấp chới thứ ánh sáng chỉnh tề
thâu liễm vào trong
 
có lúc ông đứng sững trên sân thượng
như là đang trông chừng. ở sau những áo quần
sặc sỡ đang phất phới và chiếc áo khoác giản dị của chính ông
tôi phải lòng cô út trong nhà ông
mãi đến khi các cô lũ lượt ra đi
mãi đến khi tôi quên đi mặt đẹp và tiếng xấu của cô
 
giờ đây. ông như là đã mất hút rồi, nhìn không thấy nữa rồi
tựa hồ năm ngọn đèn soi vào ông đã bị dời đi
ông mờ hẳn xuống
 
 
 

来自基层的女人

 
走进办公室的那个女人来自基层
看上去非常健康, 她的乳房坚挺而无邪
象长再那里无所谓似的
 
她不在我以前的放荡生活中
生活。如今我也健康、有规律
一日三餐、每周一次
如同例会,接吻的嘴只用来喝水
 
她嬉笑像报春鸟,然后
她通知我们到楼下开会
象只胖乌鸦
我坐在各种柜子之间
当他读到“程序”和“全方位”
象是在读触模和进入
 
 

người đàn bà đến từ tầng lớp cơ sở

 
người đàn bà bước vào văn phòng đến từ tầng lớp cơ sở
xem ra vô cùng khoẻ mạnh, vú nàng căng mà không dâm
cứ như mọc ra bất cần ở đó vậy
 
nàng không sống trong đời phóng đãng của tôi
trước kia. bây giờ tôi cũng khoẻ mạnh, có quy luật
một ngày ba bữa, mỗi tuần một lần
như đã thành lệ, miệng hôn chỉ dùng uống nước
 
nàng cười vui như chim báo tin xuân, sau đó
nàng thông báo chúng tôi xuống lầu dưới họp
như một con quạ mập
tôi ngồi giữa các loại tủ
khi nàng đọc đến “trình tự” và “toàn phương vị”
cứ như đang đọc sờ mó và tiến vào
 
 
 

天文学家

 
清晨他到市场上买菜
长着一双被无数流星划过的玻璃花眼球
他是我的邻居,好思考
 
我们经常站在各自的阳台上交谈
他看着对楼的房间说:那里象是存有一个
外在空间。因为那里的人很缓慢
 
可是,我总弄不懂一颗陨星的光
能在这里维持多久
以及他们是否见过地球的反光,如果能
那又能改变甚么
 
我低着头在想。但他总是把头伸向望远镜
在深夜,脸朝上
像个祈雨的巫师
 
而在附近的工地上,搅拌机如同一台
灰色的飞行器,装满了那些可能曾是星星的砂石
在月色下它的料斗悬起
底下一个深坑,一种失控
 
 

nhà thiên văn học

 
sáng sớm ông ra chợ mua thức ăn
mở một đôi nhãn cầu hoa thuỷ tinh bị vô số sao băng lướt qua
ông là hàng xóm của tôi, ham suy nghĩ
 
chúng tôi thường đứng trên sân thượng của mỗi bên trò chuyện
ông nhìn căn phòng của nhà đối diện nói: ở đó tựa như hiện hữu một
không gian cõi ngoài. bởi vì những người ở đó rất chậm rãi
 
thế nhưng, tôi luôn không hiểu được ánh sáng của một ngôi sao băng
có thể duy trì ở đây bao lâu
đến việc chúng phải chăng từng thấy phản quang của địa cầu, nếu từng thấy
thế thì có thể thay đổi được gì
 
tôi đang cúi đầu nghĩ ngợi. còn ông thì cứ vươn đầu về phía kính viễn vọng
trong đêm sâu, mặt ngước lên
giống một vu sư cầu mưa
 
còn trên công trường phụ cận, máy trộn vữa giống một chiếc
phi thuyền màu tro, chứa đầy những sa thạch có thể từng là những vì sao
dưới màu trăng chiếc đấu chứa vật liệu của nó treo lên
dưới đáy là một cái hố sâu, một kiểu mất điều khiển
 
 
 

外交

 
经过大街的这个女孩,正在进行一次远足
就像一小片国土那样带着她
独有的气息。她来自我年龄之外的其它地方
甚至她的神情也像某种
异国语言,美妙,但难懂。仿佛
她将要穿过这块荒蛮之地寻找
新的友邦。背包里放着全部历史:几本相册
日记和几件证书…
我知道首先会有一个坏小子的接近,像个刚刚独立的
殖民地。然后是一个邻国般的男生
一个世代好友的姨夫,一个年迈的足以改造她的强国
 
 

ngoại giao

 
một cô bé đi qua con đường lớn, đang thực hiện một chuyến viễn hành
giống như một mảnh nhỏ đất nước mang
hơi thở riêng cô. cô đến từ một nơi khác bên ngoài độ tuổi của tôi
thậm chí thần thái của cô cũng giống
ngôn ngữ của một đất nước nào khác, đẹp lạ, nhưng khó hiểu. vẻ như
cô sẽ xuyên qua vùng đất hoang dã này để tìm kiếm
tình bang giao mới. trong túi đeo lưng mang toàn bộ lịch sử: vài cuốn bưu ảnh
nhật kí và vài tờ chứng thư...
tôi biết đầu tiên sẽ có sự thân cận của một đứa trẻ hư, giống như một vùng thuộc địa vừa mới
độc lập. sau đó là một cậu trai như nước láng giềng
một ông dượng hữu hảo truyền đời, một cường quốc già lão đủ để cải tạo cô.
 
 
 

新起源

 
一个人穿越旷野寻找宗教
他认真观察那里的每一次落日
如同观察某种智慧的形成
他燃起篝火看上去象一类新起源
 
他认为这样做可以提高
人们站立的高度,比如原先对一个人的爱
可以转化为对所有人的爱,甚至是
对天空土地的爱
 
相反,原先的恨会消失
变成虚空,只存放恨的影子
他要求我同样去做一次
我拒绝了他
因我觉得自己就近认识了一位天使
 
节日前她常常擦拭着一扇窗子
在某幢很高的楼房里。我知道其实
她是在练习飞翔
 
 

khởi nguồn mới

 
một người băng qua hoang dã đi tìm tông giáo
hắn chăm chú quan sát mỗi lần mặt trời lặn nơi ấy
tựa như quan sát một thứ trí tuệ hình thành
hắn đốt đống lửa ngước nhìn lên như một khởi nguồn mới
 
hắn cho rằng làm vậy có thể nâng
tầm cao chỗ đứng của mọi người, tỉ như tình yêu nguyên sơ với một người
có thể chuyển hoá thành tình yêu với mọi người, thậm chí là thành
tình yêu với trời, đất
 
ngược lại, mối hận ban đầu rồi sẽ tan
thành hư không, chỉ lưu lại bóng ảnh của hận
hắn yêu cầu tôi làm như vậy một lần
tôi đã từ chối hắn
bởi tôi cảm thấy mình sắp quen một vị thiên sứ
 
trước ngày lễ nàng thường lau chùi một cánh cửa sổ
trong căn phòng của một toà lầu cao. tôi biết thực ra
nàng đang vỗ cánh tập bay
 
 
 

窥视

 
关于这个女人。她的一个情人曾躲进
大衣柜。另一个情人藏在床下。接着她丈夫回来了
所有的情感一下子绽放
如同一扇久闭的大门
 
他和他是同一个人,甚至他和他们也是的
在一些时间,一些气候里
 
象是在模仿。他的丈夫脱去衣裤,照镜子
他就是镜子后面的那人。他躺在床上
则是床下之人的反影
 
 

nhìn trộm

 
về người đàn bà này. có một gã nhân tình từng núp vào
tủ áo lớn. một gã khác trốn ở dưới giường. rồi chồng nàng trở về
tất cả tình cảm phút chốc òa vỡ
như một cánh cửa lớn từ lâu đóng kín
 
hắn và hắn cùng là một người, thậm chí hắn và bọn hắn cũng vậy
tại một vài thời điểm, trong một vài khí hậu
 
giống như đang mô phỏng. chồng nàng cởi quần áo, soi gương
hắn chính là cái gã ở phía sau gương. ngả người trên giường
hắn chính là ảnh ngược của gã dưới giường
 
 
 

老式电话

 
进入老年,我父亲的身体开始好转
越加灵活。他爬到围墙上修剪树枝,紧张地
站在风中,他在沉默中独自干着,如果
有谁跟他搭话,他就会咆哮。因为他知道那将是危险的
也不管电话铃声,他总说没有甚么要紧的事
有一天仿晚我从外面回家
听到铃在响,一部老式电话,发了疯似的
我爬上楼,拿起来,却是一个打错的电话
灯光从户外照到地板上,一个倒放的楔形
我想起另一些日子,多么相象,但又不知道是哪些日子
记得和另一小男孩,站在刚刚雨晴的蓝色背景中
在一根暗黑的杂树做的电话干线下
一个男人正向我们走来,瘦长、急促,象是我父亲
 
 

cái điện thoại kiểu cũ

 
những năm về già, sức khoẻ cha tôi bắt đầu khá lên
càng thêm linh hoạt. ông trèo lên tường rào cắt tỉa lá cành, hồi hộp
đứng trong gió, ông làm việc một mình trong yên lặng, nếu như
có ai nói chuyện với ông, ông sẽ kêu ầm lên. bởi vì ông biết rằng như vậy là nguy hiểm
cũng mặc kệ tiếng chuông điện thoại, ông luôn nói chẳng có việc gì mà gấp gáp
có một ngày trời chập tối tôi từ ngoài trở về nhà
nghe thấy tiếng chuông đổ, một cái điện thoại kiểu cũ, cứ như đang phát điên
tôi chạy lên lầu, nhấc lên, nhưng là một cuộc gọi nhầm
ánh đèn từ ngoài cửa hắt vào chiếu trên nền nhà, một hình nêm đặt ngửa xuống
tôi nhớ đến những ngày tháng khác, giống nhau đến thế, nhưng cũng không biết là những ngày nào, nhớ cùng một bé trai khác, đứng trong cái nền màu xanh vừa tạnh mưa
dưới một cái cột điện thoại làm bằng loại cây tạp đen thẫm
một người đàn ông đang bước về phía chúng tôi, gầy nhom, vội vã, như là cha tôi
 
 
 

一首中国人关于命运的诗

 
我用别针钉死一只蜘蛛
那却不是我的缘故
 
一个妓女对警察说
我不想干,但没办法
 
其实这是一种古老的说法。无论我在哪里
总是同一个地方
 
一个工人从脚手架上摔下来
也是几十年前注定的
尽管那时没有这座建筑,没有
建造它的蓝图,甚至想要建造它的人还未出生
我向西会影响他人,向南则损坏自己
 
而我女儿几个世纪前就已出生
她如此苍老,我又如此年轻
 
被伤害的人又回到伤害他的人身边
象只来去镖,在它弧形空间里
 
有一会,我坐在火车上,我看到黄河
一条泛滥的生命线,我却弄不清
它是否与我有关
 
 

một bài thơ về người trung quốc nói về vận mệnh

 
tôi dùng kim băng đính chết một con nhện
nhưng duyên cớ không phải do tôi
 
một ả điếm nói với cảnh sát
tôi không muốn làm, nhưng đã hết cách
 
thực ra đây là một kiểu nói cổ xưa. bất kể tôi ở đâu
cũng luôn là ở cùng một nơi chốn
 
một công nhân từ trên giàn giáo ngã xuống
cũng là sự an bài của mấy mươi năm trước
cho dù lúc đó không có toà kiến trúc này, không có
phác đồ xây dựng nó, thậm chí người muốn xây dựng nó vẫn chưa ra đời
tôi hướng tây sẽ ảnh hưởng người khác, hướng nam ắt tổn hại chính mình
 
mà con gái tôi mấy thế kỉ trước đã chào đời
nó già sọm như thế, tôi lại trẻ trung như thế
 
người bị tổn thương lại trở về bên người làm tổn thương mình
giống chiếc lao khứ hồi, trong không gian cong của nó
 
có một lần, ngồi trên xe lửa, tôi nhìn thấy sông Hoàng
một dòng sinh mệnh tràn bờ, nhưng tôi ngẫm không ra
nó có quan hệ gì với tôi không
 
 
 

一张照片

 
一张照片因他后面写有文字而生动
因此我知道你以前的样子。但是人
却不能重复自己
 
当时,我渴望留住每一片景色
还有那么多的爱情。我说,我还要回来
尽管我知道,我再也不能
 
几年前,我看到一个人的头发被剃去
又在以后被允许的日子里长出来
一如某种黑色的光线渐被调增
一个医生曾对我说:思想就像
卫生间里省钱的八瓦灯管,它彻夜亮着。而有时
它坏了,熄灭了。像一个人死了
名字留了下来,又在不断更替的日子中消失
先是名,后是姓
 
甚至他的衣服也会被拆开,用来
适合另一个身体,他的女人
会重新学会爱、接吻、重新长出处女膜
学会笑,在新的记忆中
 
 

một tấm hình

 
một tấm hình bởi mặt sau có viết chữ mà sinh động
nhờ vậy tôi biết dáng bạn trước thế nào. nhưng con người
thì không thể lặp lại mình
 
hồi đó tôi khát vọng giữ lại mỗi một cảnh sắc
với lại nhiều tình yêu đến thế. tôi nói, tôi sẽ còn trở lại
dù tôi biết, tôi chẳng còn có thể
 
mấy năm trước, tôi nhìn thấy đầu tóc của một người bị cạo
rồi sau đó lại mọc ra trong những ngày được cho phép
như một tia quang tuyến màu đen được chỉnh dài thêm
một bác sĩ từng nói với tôi: tư tưởng cũng giống
bóng đèn tiết kiệm 8 watt trong phòng vệ sinh, nó được thắp thâu đêm. mà có lúc
nó bị hỏng, tắt ngúm. giống một người đã chết
để lại cái tên, rồi lại biến mất theo ngày tháng đổi thay
trước là tên, sau đến họ
 
thậm chí áo quần hắn cũng bị lột ra, mặc vừa vặn
cho một thân thể khác, và người đàn bà của hắn
sẽ lại học biết yêu, biết hôn lại từ đầu, mọc màng trinh lại từ đầu
học biết cười, trong kí ức mới tinh.
 
 
 

在糖果店

 
有一会我在糖果店的柜台上
写下一行诗,但是
我不是在写糖果店
也不是写那个称秤的妇人
我想着其它其它事情:一匹马或一个人
在陌生的地方,展开
全部生活的戏剧、告别、相聚
一个泪水和信件的国度
我躺在想象的暖流中
不想成为我看到的每个人
如同一座小山上长着
本来该长在荒凉庭院里的杂草
 
 

tại tiệm kẹo mứt

 
có một hồi trên quầy tại tiệm kẹo mứt
tôi viết xuống một dòng thơ, nhưng
không phải tôi đang viết về tiệm kẹo mứt
cũng không phải viết về người đàn bà cân lường nọ
tôi nghĩ về những việc khác việc khác: một con ngựa hoặc một người
trên một xứ sở xa lạ, bày ra
toàn bộ trò đời, cáo biệt, tương ngộ
một đất nước của nước mắt và thư từ
tôi nằm trong dòng ấm của tưởng tượng
không muốn trở thành một ai tôi thấy
giống như loài cỏ tạp mọc trên một ngọn núi nhỏ
mà lẽ ra phải mọc trong sân vườn hoang lương
 
 
[hết]
 
 
--------------------------------------
Phụ lục về chi tiết xuất bản:
 
Nhà xuất bản Giấy Vụn – Cơ quan xuất bản văn chương vỉa hè
Chủ trương: Mở Miệng
Liên lạc: [email protected]
 
Tại tiệm kẹo mứt
Tác phẩm thơ
Nguyên tác Trung văn của Diệp Huy, 1998
Bản dịch tiếng Việt do Trúc-Ty thực hiện, 2007
 
Giấy Vụn xuất bản lần thứ nhứt 100 bản photocopy tại Sài Gòn, khổ 13 x 19 cm. In xong và nộp bản lưu cho tổ lưu trữ La Hán Phòng 11/2008
Chịu trách nhiệm xuất bản: Bùi Chát
Góp ý bản dịch: Nguyễn Tiến Văn
Tranh bìa: Jean Michel Basquiat
Game thủ trình bày (dựa theo bản Tại đường quả điếm của nhà xuất bản Hồng Diệp, Hồng Kông 1998)
Phát hành: Lý Đợi
 
在 糖 果 店 (Tại đường quả điếm) © 1998, 叶 辉 (Diệp Huy)
ISBN 962-85226-5-5
 
Tại tiệm kẹo mứt
Bản quyền tiếng Việt © 2008, Giấy Vụn & Trúc-Ty
 
 

Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021