|
Miłosz, Czesław
|
tiểu sử &
tác phẩm
|
|
CZESŁAW MIŁOSZ sinh tại Seteinai, quận Kiédaipiai, Lituanie ngày 30 tháng Sáu năm 1911, cháu của nhà thơ viết tiếng Pháp gốc Ba-lan Oscar de Lubicz-Miłosz, bạn của tiểu thuyết gia kiêm kịch tác gia Witold Gombrovicz, và chính ông là một trong những người lãnh đạo nhóm “Tiền phong thứ nhì” trong thơ Ba-lan. Lớn lên ở Vilno, học các trường Thiên chúa giáo ở đó, liên hệ với các nhóm văn nghệ chịu ảnh hưởng mác-xít khi học đại học, Miłosz bắt đầu làm thơ «một cách nghiêm chỉnh» khi sống ở Paris, gần gụi Oscar de Lubicz-Miłosz. Tham gia kháng chiến từ năm 1937, ông hoạt động cho các nhà xuất bản bí mật của kháng chiến ở Varsovie thời quốc xã chiếm đóng. Ông đã bí mật ấn hành tại Varsovie một hợp tuyển thơ chống quốc xã, và viết «Những tiếng nói của những kẻ khốn khổ» đề tặng các nạn nhân của áp bức. Ngay sau thế chiến, ông được cử làm tùy viên văn hóa của Ba-lan tại Hoa-kỳ rồi Pháp. Năm 1951, ông đoạn tuyệt với chế độ và trình bày nguyên ủy trong một tác phẩm thời danh: La Pensée captive (Suy tưởng bị cầm giữ). Sau mười năm tỵ nạn chính trị tại Pháp, ông qua Hoa-kỳ làm giáo sư ngôn ngữ và văn chương tại đại học Berkeley, California, tiếp tục viết sách, làm thơ và dịch thơ. Ông đã khởi sự in thơ vào đầu những năm 1930. Thơ về thời gian hóa đá (1933), Ba mùa đông (1937) lần lượt ra đời trước một tập thơ kháng chiến: Cứu vớt (1945). Như trên đã nói, trong thời chiến, ông đã biên tập một hợp tuyển thơ chống quốc xã, lấy tựa đề: Tiếng hát bất khuất. Năm 1973, một tuyển tập thơ Czesław Miłosz được xuất bản bằng Anh văn. Năm 1976, đại học Michigan đã in một ấn bản gồm hầu hết thơ ông (bằng tiếng Ba-lan) từ đầu đến thời kỳ đó. Và chính đại học này đã tặng Miłosz cấp bằng tiến sĩ danh dự. Miłosz còn là tác giả rất nhiều tùy bút văn nghệ, tự sự và một cuốn Lịch sử văn chương Ba-lan rất đồ sộ (khoảng 800 trang bằng Anh văn). Ông đã giới thiệu thơ Ba-lan với thế giới qua các bản dịch rất điêu luyện bằng Anh văn và chính ông vẫn tiếp tục làm thơ cho tới những năm gần đây... Được nhìn nhận như «một trong những chứng nhân sáng suốt nhất của thời đại chúng ta», Czesław Miłosz đã lần lượt được tặng những giải thưởng văn chương quan trọng nhất trên thế giới, như «Giải văn chương quốc tế Neustadt» (1978), giải Nobel Văn chương (1980). (Diễm Châu biên soạn) |
tác phẩm
|
Trú ngụ | Trong thành phố Warsaw | Không bao giờ tái diễn
(thơ)
Lại trái đất | Khúc bi thương cho N.N. | Phục hồi
(thơ)
Trở về Krakow năm 1880 | Họ sẽ đặt ở đấy những màn ảnh truyền hình | Chân dung Hy lạp
(thơ)
Caffé Greco | Chân dung thế kỷ XX | Ra đời
(thơ)
Đọc nhà thơ Nhật bản Issa (1762-1826) | Quà tặng | Những dòng sông nhỏ dần
(thơ)
Vòng qua Phố Descartes | Cuộc tháo chạy
(thơ)
Cám dỗ | Cái ngày xưa là lớn lao | [Với sự thật không hẳn là sự thật]
(thơ)
Hiện thân không tên | Gặp gỡ | Esse
(thơ)
Lời nói đầu | Ars poetica | Gửi người lầm lạc | Không thêm nữa | Thật ít
(thơ)
Về Szymborska
(tiểu luận / nhận định)
Bài ca về ngày tận thế | Những quy tắc | Lời đề tặng | Sụp đổ | Thế nhưng những cuốn sách
(thơ)
|