|
Asturias, Miguel Ángel
|
tiểu sử &
tác phẩm
|
|
MIGUEL ÁNGEL ASTURIAS (1899-1974), nhà thơ, tiểu thuyết gia, và kịch tác gia, đoạt Giải Hòa bình Lenin (1966) và Nobel Văn chương (1967), sinh ngày 19.10.1899 tại thành phố Guatemala. Cuộc đời ông gồm một chuỗi những ngày tháng phải sống «xa quê hương» vì nạn độc tài trong xứ và vì «nghề nghiệp»! Ngay từ thời nhỏ, ông đã phải rời thành phố về tỉnh Salamá, vì sự bất đồng chính kiến giữa cha mẹ ông và nhà độc tài Estrada Cabrera. Gia đình ông chỉ trở lại thủ đô vào năm 1908. Ông theo hoc Luật tại Đại học San Carlos (1917-1923) và đã tham gia cuộc nổi dậy chống Cabrera năm 1920. Sau khi ra trường với luận án «Vấn đề xã hội của người thổ dân», ông cùng các bạn học thành lâp Đại học Bình dân để những người không đủ tiền vào học đại học quốc gia có thể theo học. Kế đó, ông qua Luân-đôn để học Kinh tế chính trị, nhưng ông không theo đuổi ngành học này mà qua Paris, nghiên cứu Nhân chủng học. Tại đại học Sorbonne, ông theo hoc Gs. Georges Raynaud về các tôn giáo của người Maya và đã dịch văn bản Maya «Popul Vuh» sang Tây-ban-ngữ. Trở thành phóng viên của nhiều tờ báo lớn châu Mỹ la-tinh, ông đã đi thăm nhiều nước Tây Âu, Trung Đông, Hy-lạp và Ai -cập. Năm 1923, ông thành lập tờ tạp chí Nuevos Tiempos. Đây cũng là thời kỳ ông khởi sự làm thơ, viết truyện…, chịu ảnh hưởng siêu thực của André Breton. Năm 1928, ông trở về Guatemala trong một thời gian ngắn, dạy ở Đại học Bình dân, rồi quay lại Paris, kết thúc tập truyện truyền kỳ Leyendas de Guatemala (1930). Khi ông từ Pháp trở về nước năm 1933, ông cũng đã viết xong cuốn tiểu thuyết El Señor Presidente nhưng Guatemala lúc đó nằm dưới quyền nhà độc tài Jorge Ubico. Chỉ mãi sau khi nhà độc tài sụp đổ, tổng thống mới của Guatemala cử ông làm tuỳ viên văn hóa của tòa đại sứ Guatemala ở Mexico, ấn bản đầu tiên của cuốn tiểu thuyết này mới xuất hiện, vào năm 1946, nghĩa là 13 năm sau khi đã hoàn tất. Cuối năm 1947, ông được bổ làm tùy viên văn hóa ở Á-căn-đình và trong lúc ở Buenos Aires, ông đã cho xuất bản cuốn Sien de alondra (1949), một tuyển tập thơ ông làm từ 1918 đến 1948. Năm 1949 cũng là năm xuất hiện cuốn tiểu thuyết Hombres de maiz, thường được coi như kiệt tác phẩm của ông. Miguel Ángel Asturias còn được cử làm tùy viên văn hóa ở Paris (1952-1953), rồi đại sứ ở San Salvador (1953-1954) nhưng khi các lực lượng hữu phái của Carlos Castillo Armas lên nắm quyền, ông đã bị bãi nhiệm. Từ đấy, không bao giờ trở lại sống ở quê hương nữa. Trong những năm 1950, Miguel Ángel Asturias đã hoàn thành một bộ ba cuốn tiểu thuyết gồm Viento fuerte (1950), El Papa Verde (1954) và Los Ojos de los Enterrados (1960), vạch trần tội ác của «Liên hiệp Công ty Trái cây» ở một nước Trung Mỹ. Năm 1966, tổng thống mới của Guatemala lại cử ông làm đại sứ ở Pháp. Năm kế tiếp lãnh giải Nobel Văn chương… Những năm cuối đời, Miguel Ángel Asturias sống ở Tây-ban-nha. Ông mất ngày 9. 6. 1974. Thi hài được chôn cất tại nghĩa trang nổi tiếng của Paris: «Père Lachaise». Tác phẩm toàn tập của Miguel Ángel Asturias (in năm 1977) gồm 24 cuốn, chưa kể 6 cuốn được in từ 1980 đến 1989… Trong số các tác phẩm của ông có một «truyện vừa», tựa là Torotoumbo, đã được Đỗ Long Vân dịch sang tiếng Việt. |
tác phẩm
|
Về chủ nghĩa hiện thực thần kỳ và việc dịch thuật văn chương châu Mỹ La-tinh
(phỏng vấn)
Cổng vào
(truyện / tuỳ bút)
Nhà kể chuyện tài ba xiển dương con chim bắp | Nhà kể chuyện tài ba xiển dương những bác thợ mộc | Bài ca ngợi những bác thợ rèn
(thơ)
Chuỗi kinh cầu của kẻ lưu đày
(thơ)
|