|
Ferlinghetti, Lawrence
|
tiểu sử &
tác phẩm
|
|
Lawrence Ferlinghetti (nhà thơ, dịch giả, nhà văn, kịch tác gia, hoạ sĩ, và phê bình gia) sinh ở Yonkers năm 1919. Lúc chưa đầy một tuổi, ông đã bị đưa vào một trại mồ côi ở New York vì thân phụ ông qua đời và thân mẫu bị mất trí. Sau đó, Emily Monsanto, một thân nhân bên ngoại, đã đem Ferlinghetti về nuôi và mang ông sang Pháp từ năm 1920 đến 1924. Thế rồi Emily Monsanto cũng bị điên, nên ông được một gia đình tên là Lawrence đem về nuôi, và có lẽ vì thế nên sau này ông lấy tên là Lawrence. Sau khi tốt nghiệp đại học North Carolina, ông gia nhập hải quân Hoa Kỳ trong Đệ Nhị Thế Chiến và giữ chức vụ thuyền trưởng. Năm 1947, ông đậu thạc sĩ văn chương tại đại học Columbia, và năm 1950 ông đậu tiến sĩ văn chương tại đại học Paris (Sorbonne). Từ 1951 đến 1953, ông về cư trú tại San Francisco, dạy tiếng Pháp, vẽ, và viết tiểu luận phê bình nghệ thuật. Năm 1953, cùng Peter D. Martin, ông thành lập thư quán City Lights (mượn tên từ một cuốn phim lừng danh của Charlie Chaplin) — nơi chuyên bán sách bìa giấy đầu tiên ở Hoa Kỳ — và, vào năm 1955, ông mở thêm nhà xuất bản City Lights. Suốt nửa thế kỷ qua, thư quán và nhà xuất bản City Lights là tụ điểm của các nhà thơ, nhà văn, nghệ sĩ và giới trí thức khai phá của Hoa Kỳ. Đó là nơi đã cho ra đời những tác phẩm lẫy lừng và gây chấn động. Chẳng hạn, năm 1956, Ferlinghetti đã xuất bản tập thơ Howl của Allen Ginsberg, và bị bắt giam về tội truyền bá tác phẩm ô uế, tục tĩu. Sự việc đã biến thành một vụ án nổi tiếng trong lịch sử văn học Hoa Kỳ. Cuối cùng, được sự ủng hộ mạnh mẽ của rất nhiều nhân vật lớn trong giới văn chương và hàn lâm trên toàn quốc, Ferlinghetti đã được tha bổng. Vụ án này đã tạo nên một tiền lệ pháp lý cho việc xuất bản những tác phẩm gây tranh cãi về "đạo đức" nhưng lại đem đến những thay đổi quan trọng cho nghệ thuật và xã hội. Ferlinghetti đã viết rất nhiều sách. Trong số đó, tập thơ A Coney Island of the Mind (1958) đã được tiêu thụ trên một triệu ấn bản và được dịch ra chín ngoại ngữ. Những thi phẩm nổi danh khác của ông là Pictures of the Gone World (1955), The Secret Meaning of Things (1969), Open Eye, Open Heart (1973), Landscapes of Living and Dying (1979), Endless Life: Selected Poems (1981), và Over All the Obscene Boundaries: European Poems and Transitions (1984). Song song với thơ, ông viết hai cuốn tiểu thuyết, Her (1960) và Love in the Days of Rage (1988), và dịch thơ Jacques Prévert và Pier Paulo Pasolini. Ở tuổi tám mươi, ông vẫn viết đều đặn, và những tác phẩm gần đây nhất là A Far Rockaway of the Heart (1997), How to Paint Sunlight (2001), và Americus Book I (2004). Allen Ginsberg nhận định rằng phong cách thơ của Ferlinghetti là sự kết hợp giữa thơ tự do của Pháp (với ảnh hưởng đến từ Prévert, Cendrars và một vài thi sĩ khác) và mỹ học thi ca đương đại Hoa Kỳ. Thật vậy, chính Ferlighetti đã cho biết rằng ông đã sáng tác nhiều bài thơ lúc tưởng tượng đến một nền nhạc jazz đệm theo, và do đó những bài thơ ấy để đọc và nghe, thay vì để xem bằng mắt trên trang giấy in. Như một hoạ sĩ, tác phẩm của Ferlinghetti đã được triển lãm tại rất nhiều phòng tranh nổi tiếng trên thế giới, từ Butler Museum of American Painting đến Il Palazzo delle Esposizioni tại Rome. Hiện nay, tranh của ông vẫn thường được treo tại George Krevsky Gallery, San Francisco. Ngoài Hoa Kỳ, hoạt động nghệ thuật của Ferlinghetti đặc biệt năng động ở Ý. Ông đã đi khắp nước Ý, đọc thơ tại Roma, Napoli, Bologna, Firenze, Milano, Verona, Brescia, Cagliari, Torino, Venezia, và Sicilia. Ông đoạt giải Premio Taormino năm 1973, và sau đó là những giải thưởng lớn khác như Premio Camaiore, Premio Flaiano, và Premio Cavour. Tại Hoa Kỳ, ông đoạt rất nhiều giải thưởng, đáng kể nhất là các giải: Los Angeles Times’ Robert Kirsch Award; BABRA Award for Lifetime Achievement; National Book Critics Circle Ivan Sandrof Award for Contribution to American Arts and Letters; American Civil Liberties Union’s Earl Warren Civil Liberties Award. Năm 1998, Ferlinghetti đoạt danh hiệu San Francisco’s Poet Laureate. Năm 2003, ông nhận huy chương Robert Frost Memorial Medal, cùng với giải thưởng Author’s Guild Lifetime Achievement Award, và được bầu làm viện sĩ Viện Hàn Lâm Nghệ Thuật và Văn Chương Hoa Kỳ. (HN-T soạn) |
tác phẩm
|
Họ dựng tượng | Một mùa đông u ám chói chang ở Paris
(thơ)
Điệu blues Santa Rita
(thơ)
Xin chào
(thơ)
Không lâu lắm
(thơ)
Allen Ginsberg hấp hối
(thơ)
Vào thời buổi cách mạng chẳng hạn | Ristorante Vittoria, Milan
(thơ)
Thế giới là một nơi đẹp...
(thơ)
Trở về Paris với Pissaro | Giấc mơ ấn tượng đến muộn
(thơ)
Thơ là gì?
(tiểu luận / nhận định)
Tình nhân của những nhà ga
(thơ)
Quần áo lót | Những con ngựa rạng đông
(thơ)
[Trong những cảnh vĩ đại nhất của Goya chúng ta dường như nhìn thấy...]
(thơ)
Đọc Apollinaire bên sông Rogue
(thơ)
Ba bài thơ
(thơ)
|