|
Beckett, Samuel
|
tiểu sử &
tác phẩm
|
|
SAMUEL BECKETT sinh ngày 13 tháng 4 năm 1906 ở Dublin, Ái nhĩ lan. Sau thời gian học ở Portora Royal School và Trinity College (Dublin), ông ra trường với bằng Master of Arts, dạy Anh ngữ ở trường Cao đẳng sư phạm Paris (1928-1931) và Đại học Dublin (1931). Năm sau ông từ chức và sống bốn năm lang thang ở Anh, Đức và Pháp. Cuối 1937 ông sống một thời gian ngắn ở Paris, trong một căn nhà tồi tàn riêng biệt ỏ khu Montparnasse. Lần thứ hai qua Pháp (1940) ông bị kẹt lại vì tình hình chiến sự. Năm 1941 ông tham gia Kháng chiến cùng một người bạn cũ ở Cao đẳng sư phạm, và qua năm sau phải trở về lánh nạn ỏ Vaucluse. Ba năm sau đó ông phục vự trong Hồng thập tự Anh, rồi tiếp tục sống rất lẻ loi ở Paris cho đến năm 1949, khi ông cưới vợ và kết thân với những nhà văn siêu thực, các nhạc sĩ và họa sĩ ở thủ đô nước Pháp. Bắt đầu viết từ 1945, vở kịch đầu tiên của ông, En attendant Godot, diễn lần đầu tiên trên sân khấu Babylone ngày 3.1.1953, là một thành công lớn và làm ông nổi tiếng khắp thế giới. Nhưng ông vẫn sống “trốn tránh” xã hội và chỉ lui tới trong vòng những bạn bè thân thiết. Là người ít nói, ông không thích những cuộc bàn cãi văn chương. Thỉnh thoảng (và rất ít khi) ông chịu nhận trả lời phỏng vấn, rồi sau đó tiếp tục... im lặng. Gần như toàn bộ tác phẩm của Samuel Beckett đều được viết trước tiên bằng tiếng Pháp, rồi sau đó chính ông viết một bản khác bằng (hoặc dịch qua) tiếng Anh – hay ngược lại, trừ một vài trường hợp đặc biệt như kịch All That Fall, với bản Pháp ngữ Tous ceux qui tombent của Robert Pinget. Ông được trao Giải Nobel Văn chương năm 1969. Danh sách tác phẩm của ông dài, ghi ra cuốn này thi tội cho cuốn kia, nên chúng tôi xin được để dành toàn bộ sự tò mò cho người đọc. Samuel Beckett mất ngày 22 tháng 12 năm 1989, để lại trong lòng người đọc ông những sự thương tiếc... im lặng. Beckett thường được coi là một bậc thầy viết ngắn (minimalist master) một phần là do nhiều vở kịch ngắn hoặc cực ngắn (playlets), hoặc kịch câm của ông, viết để trình diễn sân khấu, hoặc truyền thanh, truyền hình – những màn kịch trong đó thường khi ông đem đời sống, nhận thức và cả chuyện viết lách thu nhỏ và gói gọn vào một nội dung dày đặc thân phận hẩm hiu, khắc nghiệt, mệt mỏi, vô vọng của con người. Cái giới hạn chữ nghĩa của ông, như thế, mở ra cái mênh mông bị dồn ép của đời sống. (Hoàng Ngọc Biên soạn) |
tác phẩm
|
Tất nhiên về phần tôi...
(thơ)
Nao nào
(kịch bản)
Đại hoạ
(kịch bản)
Khác và hệt
(thơ)
Độc thoại
(kịch bản)
Chiều tà
(truyện / tuỳ bút)
Cái hình ảnh
(truyện / tuỳ bút)
Kẻ bị trục xuất
(truyện / tuỳ bút)
Thở
(kịch bản)
Bước chân
(kịch bản)
Ru
(kịch bản)
Ba bài thơ
(thơ)
WATT (trích)
(tiểu thuyết)
Phác thảo kịch truyền thanh
(kịch bản)
Tưởng tượng đã chết hãy tưởng tượng
(thơ)
Của một tác phẩm bỏ dở
(truyện / tuỳ bút)
Mối tình đầu
(truyện / tuỳ bút)
Màn kịch không lời II
(kịch bản)
Màn kịch không lời I
(kịch bản)
Đoạn kịch nháp I
(kịch bản)
|