tin & thư | chuyên đề | tác phẩm mới | tác phẩm của tháng | đối thoại | tác giả | gửi bài | góp ý |
sinh hoạt
đối thoại
Trả lời Nhã Thuyên  [đối thoại]

 

Bài viết của Nhã Thuyên cho thấy những ưu tư mà tôi tin là trung thực của một nhà thơ trẻ trong nước hiện nay. Tôi tôn trọng những ý kiến của tác giả. Nhưng để “trao đổi”, tôi thấy chỉ cần trả lởi ngắn gọn hai câu hỏi sau của Nhã Thuyên, vì nó là những ý chính trong bài viết.

1/ “Tại sao lại (cần) nhấn việc văn học miền Nam chưa được thừa nhận bởi văn nghệ sĩ Miền Bắc? Nó liên quan đến sự nghiêng lệch của quyền lực chăng? Tại sao các nhà nghiên cứu, phê bình, và người sáng tác ở miền Nam không lên tiếng và làm công việc giãi mã nó để làm một sự đối ứng? Vấn đề ở đây có thể chẳng phải bởi Nhà Nước hay “văn chương Nam Bắc phân tranh”, mà bởi, chẳng có ai thực sự đủ độ quan tâm và lên tiếng? Không lẽ đợi một-cái-miệng-chung-chung-trừu-tượng?”

Việc đòi hỏi văn học miền Nam trước 1975 được công nhận không phải là một tranh chấp “quyền lực” văn chương. Nó chỉ xuất phát từ nhu cầu công bằng và tôn trọng lịch sử. Đối với một nhà văn, và với những người tự trọng nói chung, cảm giác được đối xử công bằng và không dối trá là rất quan trọng. Chỉ với công bằng và sự thật thì những xung đột chính trị có nguồn gốc từ quá khứ mới có thể chấm dứt.

Các nhà phê bình, người sáng tác ở miền Nam đã, đang, và sẽ “lên tiếng” về văn chương miền Nam. Nhưng điều đó không có nghĩa là giới văn nghệ miền Bắc có thể tiếp tục tảng lờ một bộ phận quan trọng của lịch sử văn chương đương đại Việt Nam, nhất là khi sự tảng lờ này sẽ dẫn đến những bất cập trong nghiên cứu văn học, gây ngộ nhận đối với những thế hệ Việt Nam tương lai và người ngoại quốc. Nhã Thuyên nghĩ sao nếu những người làm văn nghệ miền Nam và hải ngoại không bao giờ nhắc đến và đăng sáng tác của những tác giả miền Bắc?

Các nhà văn không chờ đợi sự công nhận của nhà nước. Văn chương tự do không bao giờ chờ đợi sự công nhận của nhà nước. Giải thưởng nhà nước chỉ là trò xôi thịt ở những xứ độc tài. Nhà văn chỉ cần nhà nước đừng can thiệp vào chuyện của họ. Rất tiếc, điều này hiện vẫn không có được tại Việt Nam. Nhã Thuyên có nhớ những “đấm đá” và thu hồi sách đối với nhà văn miền Nam Dương Nghiễm Mậu cách đây không lâu? Nhã Thuyên dẫn ví dụ về một luận văn sinh viên nghiên cứu Thanh Tâm Tuyền. Nhưng trong luận văn đó, liệu người sinh viên có thể viết một cách “rốt ráo” về những năm tù đày của Thanh Tâm Tuyền sau 1975 để lý giải sự chuyển hướng phong cách trong thơ ông? Hơn ba mươi năm sau ngày “đất nước thống nhất” mới có một sinh viên viết đôi điều về một nhà thơ quan trọng nhất của văn chương miền Nam thì dĩ nhiên không thể xem là đủ, không cần lên tiếng “đòi hỏi” gì nữa. Còn Võ Phiến, Viên Linh, Tô Thuỳ Yên, Chu Tử, Nguyễn Mạnh Côn, Mai Thảo, Nhã Ca, Duyên Anh, Phạm Công Thiện, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Đức Sơn…và hàng chục tác giả quan trọng khác của văn chương miền Nam ở đâu? Phải chăng họ không được tái bản chỉ vì lý do thị trường, sách quá dở, quá cũ, in ra sẽ không ai mua? Hay thật ra họ không được in là vì mệnh lệnh từ “một-cái-miệng-chung-chung-trừu-tượng” có tên Nhà nước?

2/ “Có thể có một sự thật: chúng ta chưa có những thông điệp của tự do – thì đó, hãy nghĩ đến cái trách nhiệm thuộc về mỗi cá nhân, bởi chẳng có một thứ tự do chung của tất cả mọi người, cũng không có một thứ tự do thay mặt đất nước, dân tộc, một thứ tự do đại diện, chỉ có tự do của cá nhân anh/chị mà thôi.

Xoay đi xoay lại vấn đề tự do hay không tự do với người nghệ sĩ, nhưng tự do đó là gì? Có lẽ đến giờ, một từ tự do trừu tượng vẫn cứ là một ẩn ức – một khát vọng bị đè nén và chưa được giải phóng “hết cỡ” với văn chương Việt.”

Tự do không phải lúc nào cũng “trừu tượng”. Nhà văn Việt Nam đang cần những thứ tự do rất cụ thể: tự do in ấn, tự do báo chí, tự do thảo luận. Đây cũng là những quyền căn bản của con người. Nhà văn cũng là một-con-người. Cho nên anh ta cần lên tiếng cho quyền-tự-do-làm-người của mình (và hy vọng cũng cho kẻ khác nữa). Nhiều người nhầm lẫn việc lên tiếng cho những quyền làm người căn bản này với việc nhà văn đang đòi hỏi những điều kiện “ưu đãi” để đẻ ra “tác phẩm lớn”. Không hẳn như vậy. “Tác phẩm lớn” của Việt Nam có thể sẽ ra đời khi thế giới không còn ruồi. Điều mà nhà văn Việt Nam cần hiện nay chỉ là quyền được tự do sáng tạo (hay lười sáng tạo cũng được) mả không phải sợ... công an.

Tôi tin là có một thứ tự do chung cho đất nước và cộng đồng, ngoài tự do tinh thần của mỗi cá nhân. Tự do cá nhân của một nhà văn có vẻ chỉ là trò AQ thảm hại khi đất nước của anh ta không có tự do.

 

 

-------------------------------------------------------------------

Các bài đối thoại liên quan đến văn học đương đại:

27.05.2009
[VĂN HỌC] ... Liệu sẽ có một thời kì mới của thơ chăng? Liệu có thể ứng xử với quá khứ theo cách: những gì đã không tạo được thành một giai đoạn của quá khứ nghệ thuật hay chỉ là quá khứ của cái không-quá-khứ thì, với nghệ thuật, hãy để nó tự/bị huỷ hoại, mòn rữa?... (...)
 
25.05.2009
[VĂN HỌC] ... Nguyễn Quang Thiều chưa nói rốt ráo về những chỗ đó chính vì bản thân ông chưa có tự do để nói. Trong bài tham luận của ông có hai lần ông chạm đến khái niệm “tự do”... Cả hai lần, ông chỉ nói đến “khát vọng tự do” và “những giấc mơ về tự do”, nghĩa là chưa có tự do... (...)
 
[VĂN HỌC] ... Lối đọc và diễn giải của nhà thơ Võ Tấn Cường khá là lạ lùng. Từ một ảo giác nào đó, anh cho rằng nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã đặt ra câu hỏi: “Thơ Việt đang ở vị trí nào của nền thơ Đông Á?” ... Sau khi tưởng tượng Nguyễn Quang Thiều đã đặt ra câu hỏi ấy, Võ Tấn Cường khẳng định ngay rằng Nguyễn Quang Thiều “không thể tìm được câu trả lời”!... (...)
 
[VĂN HỌC] ... Thưa anh Võ Tấn Cường, Tôi chưa bao giờ đặt câu hỏi: “Thơ Việt nam ở vị trí nào trong nền thơ Đông Á?” Tôi không biết anh đọc điều này ở đâu? Sứ mệnh của thơ ca mà tôi nói đến trong bài viết là sứ mệnh của Cái đẹp và Lương tâm anh ạ. Nó không hẳn là những bài thơ cụ thể in trên báo hoặc sách... (...)
 
24.05.2009
[VĂN HỌC] ... Lịch sử thơ ca Việt Nam đã cho thấy bao nhiêu nhà thơ chịu cảnh khốn khổ chỉ vì một câu thơ, bài thơ bị hiểu lầm là ám chỉ về chính trị. Thơ ca Việt Nam đã thức tỉnh khát vọng sống của con người hay ru ngủ con người trong cơn mê vô tận của sự đớn hèn? Thơ ca Việt Nam chưa bao giờ là thứ thơ tâm linh và khó có thể đạt được điều này trong khi con người đang từng ngày bị “chính trị hoá”... (...)
 
14.03.2009
[VĂN HỌC] ... Hai bài đối thoại ngắn về “vái cây đa” và “thờ cây... mít” rất thú vị. Hoan hô và cảm tạ Lưu Thế Hiệp và Hà Thanh Thuỷ đã lên tiếng thay độc giả... (...)
 
13.03.2009
[VĂN HỌC] ... Những thí dụ về lối phê bình “vẽ bùa” thì nhan nhản trên sách báo, và thỉnh thoảng độc giả có thể bắt gặp những thí dụ “đặc sắc”. Tôi xin đóng góp một vài thí dụ mà tôi tình cờ lượm được. Trong bài “Phạm Duy trên đăng trình đến vô cực”, Thuỵ Khuê bình bài “Thiền Ca số 1” của Phạm Duy như sau... (...)
 
12.03.2009
[VĂN HỌC] ... Còn nếu quả thật ông Đỗ Quyên không có í chê thơ Mai Văn Phấn, thì việc đem thơ Nguyễn Đình Thi ra để tán dương ngay trong câu kết của lời bình về thơ Mai Văn Phấn lại là việc nhảm nhí, lãng xẹt, giống như mượn cớ bình thơ Mai Văn Phấn để “vái cây đa” vậy... (...)
 
11.03.2009
[VĂN HỌC] ... Tình yêu và tình dục như hoà quyện lại với nhau, thành một. Người ta không yêu nhau như thần linh yêu nhau, ở đó, chỉ có tình cảm tinh ròng, thuần tuý, trừu tượng và mơ hồ. Ngược lại, người ta yêu nhau bằng tất cả thân thể của mình. Yêu với trái tim, với đầu óc, với môi, lưỡi, răng, với bộ phận sinh dục, với da, thịt, với toàn bộ con người của mình... (...)
 
07.03.2009
[VĂN HỌC] ... Cái nỗ lực “hiện đại” hoá thẩm mĩ thơ Tượng Trưng (như cái nỗ lực của ông Hoàng Ngọc Hiến), níu nó về thế kỉ 21 (để chê trách thơ của các thi sĩ trẻ hôm nay là “mơ hồ nhưng chưa chính xác” và “chính xác nhưng lại chẳng mơ hồ” [sic], và để dạy cho họ làm thứ thơ “phải có tính nhạc hiện đại” “kết hợp giữa cái mơ hồ và cái chính xác” [sic]) là một nỗ lực vô hiệu. Thậm chí vô nghĩa... (...)
 
06.03.2009
[VĂN HỌC] ... Ông Hiến thường có lối lý luận vơ đũa cả nắm, thích rút gọn mọi chi tiết phức tạp thành một vài câu phán đơn giản, ra vẻ là đã nắm được cái chìa khoá độc đáo, duy nhất của vấn đề. Nhưng kỳ thực những câu phán đơn giản ấy của ông Hiến lại chứa đầy những điểm tự mâu thuẫn hay lệch lạc một cách rất căn bản về phương pháp luận... (...)
 
02.03.2009
[VĂN HỌC] ... Không biết ông Hiến đã tổng hợp bao nhiêu sách vở, bài viết, nghiên cứu, thảo luận... về “hậu hiện đại” để nặn ra một công thức cô đọng đến thế! Theo công thức đó, ta có thể đi ngược thời gian và tìm thấy từ nhiều thế kỷ trước đây đã có vô số tác phẩm mang khí vị hay hơi hướng “hậu hiện đại”... (...)
 
[VĂN HỌC] ... So sánh hai cuộc phỏng vấn, tôi lại càng thấy... ớn tới tận óc, vì càng nói thì nhà văn Nguyễn Đình Chính càng cho thấy ông chỉ nói... bậy... (...)
 
01.03.2009
[VĂN HỌC] ... Về kỹ thuật và hình thức cấu trúc, văn phong của Online... ba lô không tuân thủ theo một khuôn mẫu bất biến. Nó chưa định hình. Nó còn đang ở dạng bào thai. Có thể nó sẽ là một đứa trẻ xinh xắn nhưng cũng có thể là quái thai. Về nội dung, Online... ba lô đang cố gắng dò tìm những đại giá trị mới. Có thể những đại giá trị này không có hoặc có mà chưa có tên gọi. Đó là những yếu tố hậu hiện đại... (...)
 
28.02.2009
[VĂN HỌC] ... Nhơn tiện cũng nói thiệt luôn. Cái trò đưa phong bì để dựng phỏng vấn giả mà làm tiếp thị này thì quá phổ biến ở nước ta. Tự lăng-xê dỏm để tiếp thị. Nhan nhản ca sĩ ra CD, nhà thơ nhà văn ra sách mới, đều chơi cái trò này. Ớn tới tận óc!... (...)
 
27.02.2009
[VĂN HỌC] ... Trời ơi, bác Hiệt dạy em sai rồi! Truyền thống dân tộc “Tôn sư trọng đạo” ngời sáng như thế, sao bác lại xui dại em? Hơn nữa, em lấy tư cách gì mà dám nện? Bản thân em còn chưa rõ “Hậu hiện đại” thế nào, kiến thức em cũng còn “nhếch nhác” lắm, nào dám lên mặt dạy dỗ gì ai, nói gì tới “nện nhừ xương” hả bác?... (...)
 
[VĂN HỌC] ... Thiển nghĩ, nếu tác phẩm của Alessandro Baricco được dịch trên 30 thứ tiếng vì có một giọt cà cuống, tác phẩm của Nguyễn Đình Chính được nữ thi sĩ Phạm Thị Điệp Giang đọc và phê bình trên mục Đối Thoại vì có nửa lọ cà cuống, thì thơ Nở Ngày có “hơi hướng hậu nhảm đại” của bần sĩ chỉ có... xác cà cuống mà thôi... (...)
 
26.02.2009
[VĂN HỌC] ... Cô Giang ơi, ông Nguyễn Đình Chính đã làm đúng phóc theo tinh thần “hậu hiện đại” do ông Hoàng Ngọc Hiến truyền giảng đấy! Ông Chính còn triển khai tối đa cho thật đậm đà chất “hậu hiện đại”... Vậy mà cô Giang lại chê trách ông Chính là “cũ kinh khủng”, “sáo và sến kinh khủng”, “dâm mọi lúc mọi nơi”, thì tội nghiệp cho ông Chính quá đi chứ. Con dại, thì cái mang... (...)
 
24.02.2009
[VĂN HỌC] ... Bìa sách được in rõ “tiểu thuyết Hậu hiện đại”... đọng lại cả cuốn truyện Online... Balô chỉ là cái sự nhảm ba lăng nhăng của một lão nghệ sỹ nửa mùa, đại nhảm. Cũng có phần nào văng mạng như tác giả đã cho biết (mà văng chưa tới nơi). Nhưng, xét về khía cạnh nào đó, sự nhảm ấy, sự cố gắng nhảm ấy, lại càng làm tăng thêm sự bất lực của một lớp người, càng cố tỏ lại hoá ra chỉ là càng cố tưởng (mình còn ngon lắm!)... (...)

 


Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021