|
Những Mối Quan Hệ
|
|
I Theo truyền thuyết của lòng suối, ngữ điệu
những viên cuội, hồi ức lá rừng tháng giêng,
ngụ ngôn trong lòng trứng của dòng chảy, và
tiếng hát dưới bóng râm nhựa cây, má tôi,
thuộc âm bản của chem chép không biết nói.
Một di vật còn sót của ao cạn.
Nơi binh tướng của sen và súng tranh giành nhan sắc.
Nơi giáo mác của ao và đầm quanh năm đánh nhau.
Nơi xác thuỷ sinh như những hồn ma ám vào
miệng, mũi, mắt, tai của sen và súng.
Nhan sắc của chúng chướng khí, rũ xuống thành mùn.
Chúng biến thành dưỡng chất trong vô thức của
đất. Chúng nở ra những bông trắng và vàng,
những bông không có tay và chân, là gia vị
khiếm khuyết trong hình nhân đức hạnh, nơi xó
bếp má tôi hàng ngày, bà giữ gìn cẩn thận,
nó luôn đậm đặc và có mùi bùn.
Từ bùn non, một con ễnh ương tốp xộp vừa thoát
hạn, ồm ộp kêu loan tin tổ phụ chem chép bây giờ vẫn sống.
Lão là rồng.
Từ sinh vật bò sát hoá thân, trong lúc vội bay
lên, rồng đã để rớt sợi râu và một con chem
chép há miệng ngáp trong lúc buồn ngủ vớ
được, cất vào bụng. Khi trở thành rồng, tổ
phụ chem chép đánh thức giấc mộng trong nọc
độc bò sát.
Con hổ mang bò lên mái, nơi rồng chầu, uốn
lượn điệu đồng cốt và hổ thẹn vì không râu.
Rồng vẫn ung dung bất động và chưa một lần
nhức đầu hay tăng huyết áp. Trong khi má tôi,
uống đủ thứ cổ và tân dược, vẫn không sao
trục khỏi bụng cơn đau do râu rồng tác hại.
II
Xem thế giới loài vật, con mơ chim mỏ vàng,
chân xanh, đậu xuống kim gió mổ từng con số.
Ăn hết 1, 2, 3, … như Phù Đổng, chim vụt khổng
lồ. Mọi chiếc đồng hồ đều mất quyền sở hữu,
và thời gian không còn khe khắt.
Không tiếng gà con trong vuốt diều hâu.
Không khỉ già cốc đầu khỉ nhỏ.
Không sâu bọ thích đeo băng đỏ.
Không cả sự quấy nhiễu của những khẩu hiệu nhảm gì gì đóù…
Ba tuổi, con là thỏ trắng.
Chín ngày tuổi, thỏ nhiễm trùng rún.
Thỏ, 24 ngày thở trong lồng kính.
Khi biết nói, thỏ đòi về trời.
Khi tiêu chảy, thỏ đòi về trời.
Thỏ nói ở đó không có người lớn, không đỏ, đen.
Chỉ những đám mây lông trắng, những thỏ vạn hoa dưới trăng.
Gặp ác mộng 39 độ, thỏ mê sảng kêu: ‘B…ố! R…ắ…n! …’
Mắt tê dại mở, và mặt như lá non nhúng nước sôi.
Thỏ hỏi từ đâu thỏ ra, đàn ông hay đàn bà?
Chúa sinh muôn loài, sinh Chúa là ai?
Bố nói dối, bố là củ cà rốt, là thức ăn có râu cho những sinh vật trong suốt.
Cà rốt không ác mộng.
Cà rốt không Scar (Vua sư tử)
Cà rốt không đỏ, đen, và con tin…
Con bị tù từ ngày vào lớp mầm.
Giờ mười tuổi, con chịu án bảy năm.
Để khoẻ mạnh, tôi hay ăn mật ong, không ra ngoài vào ngày lễ.
Tôi hay mất bình tĩnh, nổi khùng, vì một lần dối thỏ trắng.
III
Hồi nhỏ, tôi thích ăn rô đồng, nên vợ tôi
giống con rô biển.
Cô ta bơi giữa cá nhám và cá đuôi hồng.
Cô ta thở bằng không khí muối, nhưng mẫn cảm
với mùi nước mắm.
Cô ta không phân ranh giữa sông và biển.
Cô ta nhìn mọi vật bởi ánh sáng chéo của mắt trắng và đen.
Không may cho những đứa trẻ, khi cô ta nhìn vật
đen bằng mắt trắng, và ngược.
IV
Anh tôi, ngựa lạc vào sa mạc.
Chân, lún sâu trong cát.
Chết, dưới gánh nặng gay gắt của lạc đà.
Các em tôi là ngựa vằn.
Con ở trong sở thú, con lơ ngơ bìa rừng.
Chúng là loài ăn cỏ, sống bằng lông.
Chúng sợ lông biến thành cỏ, và cỏ, thành xương rồng.
V
Bạn tôi là rùa có tai thỏ.
Chị ta thành đàn bà khi ba mươi bởi một ông già.
Chị ta nghe được âm thanh từ rất xa, nhưng đi đến nơi thường rất chậm.
Chị ta thích chữ ‘thà là’ và hay khẽ hát: ‘Thà là rong …’, ‘Thà là mây…’
Chắc bây giờ chị ta hát: "Thà là… tuyết, tuyết, tuyết…"
VI
Tôi gặp trên báo, đôi khi quán, ở Sài Gòn,
đôi khi quen, đôi khi bạn. Họ thường xài ngữ
điệu truyền thống. Nhưng trên đường trơn của
lời, ho,ï đôi khi không thắng kịp, bởi vậy mà
cụt chân, đôi khi mù mắt, thậm chí bỏ mạng vì
các thứ chủ nghĩa, ngay cả chủ nghĩa phát xít.
Họ tinh quái trong ánh sáng đục, quờ quạng dưới ánh sáng trắng.
Họ nhúng tay vào con bài lá mặt lá trái.
Họ luôn được nuông và hay õng ẹo với những con số 6 & 8...
Những con số ‘minh triết’ (một trong số họ nói).
Những con số đúc nên thể thơ liệt vần, vì bị hiếp quanh năm.
Họ là những thẻ sâm, bị lắc chí tử trong bàn
tay hồi xuân của bà già cầu duyên.
VII
Bơi ngược, tôi lần vào chiếc đuôi của dòng chảy.
Thấy những cái xác từ nguồn trôi xuôi.
Thấy cái mang phùng không khép được của con cá chết.
Lưỡi của nguồn đã nặng mùi, và sóng môi vỗ vào răng giả.
Tôi ngoáy đuôi giữa những âm bằng, âm nào
cũng cài sẵn bẫy.
Tôi mắc lưới. Cùng cá cơm, tôi bị tống vào
thùng gỗ.
Khi mùi thơm vân cây nhiễm mặn, tôi tỉnh dậy,
biết mình còn thở dưới đáy của vại nước mắm.
Tôi đọc thơ lẳng của bà Hương, kiểm lại cảm
giác của răng và lưỡi.
Răng sạch và lưỡi bén.
Ai nói: còn răng, còn lưỡi, còn mùi.
Bà nói: giữ răng, giữ tóc, giữ gốc.
Bà còn nói: đười ươi là loài chỉ cười trong đêm.
Nhưng bà không biết, đó là tặng vật của niềm vui tiền sử.
VIII
Trong chiếc giày há mõm của những kẻ lâm nạn,
trong trí nhớ rút đầu vào nách của dơi, trong dĩ
vãng trở thành tấm chăn đầy rận của bầy đàn,
trong ngày hội hàng ngàn cái miệng xài chung
một lưỡi, bố tôi, là tình trạng hình hoạ của cua rụng càng.
Một chiến binh của những cái hốc.
Gia tăng độ sâu cho những cái hốc,
Các chiến binh lần lượt rụng hết càng.
Gia tài của bố tôi là dám chui ra khỏi hang,
Và để lại giấc mơ kế thừa của đất một quá khứ đầy hang hốc.
Mặt đất tỉnh dậy khi nắm linh chi mở mắt.
Hang hốc ngộ ra từ cái tháp giả cổ vừa mọc.
Mũi và miệng tháp trổ tứ phía, thở và nói sặc mùi nhang.
Nạn ô nhiễm của răng
Tước mất quyền tự do lời nói,
Và thức ăn của ruồi muôn năm không xương.
(Chúng đo khoái cảm của khẩu vị xưa nay bằng mùi.)
Vô số xác của già, trẻ, đàn ông, đàn bà vẫn
xanh trong ký ức cây cỏ.
Những thi hài của chim, cá, chuột, heo, gà
không mai táng trong mộ, lăng lịch sử.
Sự thật của những huyền thoại rã trong cái
lưỡi bẩm sinh khôi hài của đất.
Những kẻ sống sót trong dối trá phải nuốt sự thật vào bụng.
(Con đường đến tự do là học cách suy tư ở trong cứt.)
Muối thiếu i ốt, giữ cho cá khỏi ươn, được
phép hành nghề. Chúng luôn nói tổ mẫu của bố tôi bây giờ vẫn trinh.
Bà là tiên.
Tôi hồi tưởng một ngàn năm trong bào thai,
bằng cách nhận mặt tổ mẫu của bố tôi qua các
cuộc thi sắc đẹp. Tôi hau háu nhìn những bộ
ngực mâm cao, những cái mông cổ đầy, và trinh
tiết thỏ đế, luôn khép nép giữa hai đùi sành điệu.
(Sành điệu lượm từ chương trình quảng cáo thời
trang trên TV 14 inch, nhập về từ nghĩa trang điện tử.)
IX
Trong trí nhớ dai dẳng, tôi có lão cùi trên
sông. Mặt lão bóng giống trái cà biến gien, dị
kỳ và sắùp nứt. Những chiếc ngón của lão
chín, sút cùi, rụng, bều mặt nước.
Nghề của lão, chuyên câu cá chẻm, lão phù
thuỷ khi nhìn xuống sông. Như tôi tớ, lão luôn
biết nơi và giờ đại yến của những con cá lớn.
Cá bự không kiếm mồi ở những sông nông.
Lão nói: ‘Xứ sở lão là con voi lâm nạn’.
Rồi mặt lão tái, vãi ra quần.
Chân tay co giật, bật khỏi thuyền.
(Chắc không phải nơi và giờ đại yến của những con cá bự)
Một đàn ông, có năm con, bỏ nhà lên núi. Bảy
mươi chín tuổi, lúc sắp viên tịch, sư đòi ăn
chuối. Mưa, đường lên núi trơn, bá tánh vãn. Sư
luôn mồn kêu: ‘Chuối! Chuối! Chuối !’
Chốc chốc há miệng cười, hàm răng sắc và
trắng, và cách lão cười không thể xoá trong
tôi, vì nó vừa ngây ngô, nó vừa tinh quái, nó
vừa van nài, nó vừa đe doạ. Các chú tiểu bắt
đầu cãi, vì không còn chuối.
Một chú tiểu lầm lì, quát: ‘Đồ con voi ham ăn’.
Mắt lim dim, sư lại nhe răng, mắng: ‘Lũ chồn
cáo, bay lừa tao!’
(Ê, lêu lêu! Voi nhẹ dạ, bỏ nhà theo cáo, bị chúng đánh rơi!)
Hơn ba thế kỷ trầm mình, đầm một ngàn năm
không đánh răng rửa mặt. Rắn biết gáy, rùa
mọc lông, cá có cánh, voi bất đắc dĩ lạm
phát mọc thêm vòi, động tác ngọ ngoạy vẫn y như cũ.
Vòi thứ nhất, vớ được: ‘Nắm xôi’ (Ca dao)
Vòi thứ hai, vớ được: ‘Cỏ non xanh tận chân trời’ (Kiều)
Vòi thứ ba, vớ được: ‘Chai Vodka’ (Nga)
Vòi thứ tư, vớ được: ‘Trái thị trong bị bà già’ (Cổ tích)
Ngỡ là phép màu, ngọ ngoạy mãi, chân giao chỉ
vẫn không chạm đất, không làm sao xỏ được vào giày.
Những đứa trẻ bụng ỏng, đít teo, đầu chưa ráo
máu, luôn bị răn bằng roi, dụ bằng lời sụt
sùi nước mắt, để chúng tích nhục, biến nhục
thành kỹ năng, qua gương chết của còng và cáy.
Lớn lên, mỗi thế hệ ra khỏi nhà với dao giắt
lưng, tiến về đầm lầy. Tôi, đứa trẻ xấu hổ
biết mình không càng (dù cu mọc lông sớm).
Một ngày cỏ, cây, đất và máu trộn nhau, tôi
bị bứng lên, ném khỏi vũng lầy bởi những viên
đạn bằng đất sét bắn nhau giữa còng và cáy.
Nơi voi lâm nạn và đầm ngàn năm là đối tượng
cám dỗ, chia đám đông ra phe nhóm. Và đến lượt
nó, voi thành nạn nhân của chính sự cám dỗ.
Voi, như vật tế, bị chặt đuôi, khấc nhượng. Họ
kéo nó lên, trịnh trọng đặt xuống tấm thớt lộ
thiên bằng đá cẩm thạch (loại đá dùng xây đền và lăng).
Theo tập tục nhục hình, sản phẩm chia theo kết
quả ác hiểm của dao. Và trên tinh thần bảo
tồn môi sinh của UN:
Da voi thuộc.
Thịt voi xay.
Lòng voi ngâm rượu.
Xương voi nấu cao.
Và bộ ngà quí là vật bất hợp pháp luôn thuộc
về gã quản tượng và bọn buôn lậu.
(Nay, đã mất vài cây răng, tôi cũng không
còn thói quen che giấu mặc cảm trước bộ càng
của còng và cáy, nhưng vẫn sợ sự ranh mãnh
của dao, ám, và thỉnh thoảng cùng Nhon vào sở
thú, nhìn voi làm trò kiếm ăn).
|