thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Nuôi kẻ đói

 

Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn

 

ROLAND TOPOR

(1938-1997)

 
Roland Topor, người Pháp, là hoạ sĩ, nhà văn, nhạc sĩ, nhà làm phim và diễn viên, nổi danh về tính chất siêu thực và cuồng phóng trong các tác phẩm của ông. Cùng René Laloux, Topor đã làm những cuốn phim như Les temps morts (1964), Les escargots (1965), và được biết nhiều nhất là cuốn phim La planète sauvage (1973). Ông cũng đã cùng Henri Xhonneux dựng loạt phim truyền hình Téléchat; và như một diễn viên, ông nổi danh trong vai Renfield trong cuốn phim Nosferatu: Phantom der Nacht (1979) của Werner Herzog. Gần cuối đời, ông lại cùng Henri Xhonneux viết kịch bản phim Marquis, phóng tác dựa trên cuộc đời và văn chương của Marquis de Sade. Trong âm nhạc, ông đã viết hai ca khúc Je m'aimeMonte dans mon ambulance cho ca sĩ Nhật-bản Megumi Satsu. Về văn chương, Roland Topor là tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết, tập truyện ngắn và tiểu luận, trong đó có: Le locataire chimérique (1964) [đã được Roman Polanski dựng thành phim vào năm 1976], Panic (1965), Four roses for Lucienne (1967), Joko fête son anniversaire (1969), Leonardo was right (1978), Mémoires d'un vieux con (1988), Journal in time (1989), Batailles (1992, viết chung với Jean-Michel Ribes), Three artists from France (1994), v.v... Và sau khi ông qua đời, một số sách khác của ông đã được xuất bản, chẳng hạn, Je t'aime: A Pillow Talk (1998), Un beau soir je suis ne en face de l'abattoir (2000), Portrait en pied de Suzanne (2001), v.v...

 

______________

 

NUÔI KẺ ĐÓI

 

Bạn có thể nghĩ tôi nói láo, nhưng thật ra tôi chưa bao giờ đói. Tôi chẳng biết đói nghĩa là gì. Từ những ngày xa nhất trong quá khứ mà tôi còn nhớ, tôi chưa từng biết đói là như thế nào. Tôi ăn, dĩ nhiên, nhưng chẳng thấy ngon miệng. Tôi tuyệt đối chẳng cảm thấy gì cả, thậm chí chẳng thấy dở. Tôi chỉ ăn.

Người ta thường hỏi tôi: "Thế thì làm sao mà anh ăn được?" Tôi phải thú nhận rằng tôi không biết. Thường thì tôi ngồi tại một cái bàn và trước mặt tôi có một đĩa đầy thức ăn. Vì tôi khá đãng trí, nên chẳng mấy chốc tôi quên béng nó đi. Khi tôi nhớ lại cái đĩa, nó đã sạch trơn. Mọi sự thường diễn ra như vậy.

Phải chăng tôi ăn trong cơn thôi miên, hay trong một trạng thái mất trí? Chắc là không. Tôi đã nói rằng đó là điều vẫn thường xảy ra. Nhưng không phải luôn luôn như thế. Đôi khi tôi cũng có nhớ đến cái đĩa trước mặt tôi. Nhưng điều ấy chẳng hề ngăn cản tôi ăn sạch những thứ trên đĩa.

Tất nhiên tôi đã thử nhịn ăn. Nhưng làm thế cũng chẳng ích gì. Tôi trở nên càng ngày càng gầy gò. Tôi đã kịp thời chấm dứt cuộc nhịn ăn. Kéo dài thêm một chút nữa thì chắc hẳn tôi đã chết đói mà không biết. Cái kinh nghiệm ấy làm tôi sợ đến nỗi giờ đây tôi ăn luôn mồm. Nhờ đó tôi không còn lo lắng nữa. Tôi cao lớn và khoẻ mạnh, và tôi phải giữ cho bộ máy chạy đều. Đối với những người khác, cảm giác đói là một sự cảnh báo; nhưng vì tôi không có cảm giác ấy, tôi phải cẩn thận gấp đôi. Như tôi đã nói, tôi có tật đãng trí. Quên là chết. Thà tôi ăn luôn mồm thì an toàn hơn. Tôi cũng nhận ra rằng khi tôi không ăn thì tôi trở nên lo lắng và bực bội, và tôi chẳng biết làm gì để trấn tĩnh. Không ăn, thì tôi hút thuốc và uống rượu quá nhiều, mà làm thế thì có hại.

Trên đường phố, tôi thường bị quấy rầy bởi những gã thân xác còm cõi, áo quần rách rưới. Họ nhìn tôi chòng chọc bằng những cặp mắt đỏ ngầu và họ lải nhải: "Chúng tôi đói!" Tôi nhìn họ một cách oán hận. Mỗi tháng, họ chỉ ăn một chút bánh mì khô, nếu có để ăn, nhưng họ sung sướng thưởng thức. "Đói hả!" Tôi nói với họ một cách cộc cằn. "Bọn chúng mày quá may mắn."

Họ khóc rấm rứt trong cổ họng. Những tiếng nấc làm họ lảo đảo. Cuối cùng thì họ lùi ra bằng những bước chân chậm chạp, lưỡng lự. Phần tôi, tôi đi ngay vào quán ăn đầu tiên mà tôi thấy. Liệu cái phép lạ ấy sẽ xảy ra chăng? Tim tôi đập nhanh trong lúc tôi ngốn miếng đầu tiên. Một nỗi tuyệt vọng khủng khiếp dâng lên ngập ngụa cả lòng tôi. Chẳng có gì cả. Chẳng một cảm giác gì cả. Chẳng ngon miệng chút nào cả. Tôi trả thù bằng cách ăn điên cuồng, giống như một kẻ dìm nỗi ưu phiền của mình vào rượu.

Tôi rời quán, nặng trĩu vì thức ăn và lòng oán hận. Bởi vì càng ngày tôi càng trở nên cay đắng hơn, tôi bắt đầu căm ghét những kẻ khác, những kẻ đói. Tôi căm ghét họ. Thì ra họ đang đói đấy ư? Tôi mong họ chết vì đói! Tôi sẽ không hề thương xót cho họ! Cuối cùng, niềm hoan lạc duy nhất còn lại cho tôi là nghĩ về những kẻ đói trong khi tôi đang ăn ngấu nghiến.

 

 

------------------
Dịch từ nguyên tác Pháp văn, "Nourrir ceux qui ont faim", trong Roland Topor, Four roses for Lucienne (Paris: Christian Bourgois, 1967; nouvelle édition 1998).
 

 


Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021