thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Nghệ thuật thơ | Trứng hay Phong cảnh | Thơ có nghĩa gì đối với tôi
Bản dịch Hoàng Ngọc Biên
 
 
NANOS VALAORITIS
(1921~)
 
NHỮNG BẢN DỊCH NÀY TẶNG JOHN VÀ PAULA SALTAS –
HAI NGƯỜI BẠN HI-LẠP Ở S.L.C. WEEKLY ĐÃ TÌM THẤY MỘT QUÊ HƯƠNG LÀM CHỖ ĐI VỀ
 
Nanos Valaoritis là một trong những nhà văn lỗi lạc của Hi-lạp ngày nay. Ông sinh năm 1921 ở Lausanne, Thụy-sĩ, bố mẹ đều là người Hi-lạp, và bản thân ông cũng lớn lên ở Hi-lạp. Valaoritis làm thơ từ lúc còn trẻ và chưa đến hai mươi tuổi đã có thơ in trên những tạp chí văn học ở Hi-lạp, bên cạnh những cây đại thụ như Odysseas Elytis, George Seferis... Ông học Văn chương cổ và Luật ở Đại học Athens, Văn chương Anh ở Đại học London, Anh quốc, và từng theo học Ngữ pháp Hi-lạp với Giáo sư Michel Lejeune tại Đại học Sorbonne ở Pháp.
 
Năm 1944, ông trốn ra khỏi nước Hi-lạp bị Đức chiếm đóng, sống ở London, và khởi sự dịch nhiều nhà thơ hiện đại Hi-lạp những năm 30, nhất là những nhà thơ cách tân Hi-lạp, đồng thời cộng tác với tờ Horizon (1946) và hoàn tất nhiều công việc dịch thuật cho nhà xuất bản New Writing (1944-1948). Thời gian ở London, ông gặp gỡ và lui tới với nhiều nhà thơ nhà văn nổi tiếng như T.S. Eliot, W.H. Auden, Dylan Thomas, và Stephen Spender; cho xuất bản tập thơ đầu tiên của mình: E Timoria ton Magnon [Hình phạt của những thầy pháp, 1947] – đáng kể hơn cả là việc đã cùng với Lawrence Durrell và Bernard Spencer biên tập và dịch tác phẩm King of Asine của George Seferis [1948] để giới thiệu với thế giới. Năm 1954 Valaoritis đến Paris, sinh hoạt và giao du mật thiết với các nhà thơ siêu thực quanh André Breton và gặp họa sĩ siêu thực Marie Wilson [sau đó sẽ là vợ ông]. Năm 1960 ông trở về Hi-lạp và từ 1963 đến 1967 là chủ nhiệm/chủ bút tạp chí văn học tiền phong Pali của Hi-lạp. Cuộc đảo chính của phe quân nhân ở nước ông khiến ông một lần nữa phải chọn lựa con đường tự lưu đày: năm 1968, ông qua Mỹ và trong suốt một phần tư thế kỷ [trừ hai năm trở về nghỉ ở Hi-lạp và Pháp] đã giảng dạy văn chương đối chiếu và tác văn tại đại học San Francisco State University. Ở Mỹ cũng như ở Hi-lạp, Valaoritis được biết đến như một nhà văn tiền phong đã có công cổ xuý cho chủ nghĩa siêu thực Pháp trong những hoạt động thơ ca. Năm 1993 ông nghỉ hưu sau khi đã cho xuất bản nhiều tập thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết và nhiều công trình nghiên cứu và dịch thuật giới thiệu văn học Hi-lạp với thế giới cũng như giới thiệu văn học thế giới với người đọc Hi-lạp, và chia thời gian sống giữa ba nơi khác nhau: Hi-lạp, Pháp và California. Ngày nay Valaoritis được coi là một trong những gương mặt sáng chói có tầm ảnh hưởng rất đáng kể và chiếm một chỗ đứng quan trọng vào bậc nhất ở Hi-lạp kể từ Constatantine Cavafy. Ở Hi-lạp, ngoài việc cho ấn hành nhiều tác phẩm đủ loại bằng cả ba thứ tiếng Hi-lạp, Anh và Pháp, ông phụ trách biên tập tạp chí văn học Synteleia, sau này trở thành Nea Synteleia.
 
Năm 2004, nhà thơ Valaoritis được Viện Văn học và Khoa học Athens trao giải thưởng thơ uy tín của Hi-lạp cho toàn bộ tác phẩm, cùng lúc ông được trao Huân chương vàng Danh dự của Tổng thống Hi-lạp cho những cống hiến của ông đối với văn học Hi-lạp. Tác phẩm ông qua những hình thức giễu nhại, mô phỏng, cắt dán, đầy những yếu tố vượt quá siêu thực để đến gần với hậu hiện đại: nhiều nhà nghiên cứu thường nhắc đến phi lý, cơ cấu, hậu cơ cấu, đến dialogism* của Bakhtin[*], đến liên văn bản... để soi rọi thơ văn ông. Sẽ không xa ngày tác phẩm phong phú của Nanos Valaoritis đứng ra làm công việc ngược lại.
 
Tác phẩm Nanos Valaoritis bao gồm nhiều thể loại, được biết đến nhiều hơn cả là những tập thơ My Afterlife Guaranteed (City Lights, 1990), Pan Daimonium (Philos Press, 2005), Mon certificat d’éternité (Digraphe, 1996), Exécuteur d’une pensée verte (L’Harmattan, 1998), Tuyển tập thơ hiện đại Hi-lạp (Talisman, 2003 - biên tập và dịch cùng với Thanassis Maskaleris, Allegro Shartz...), tiểu thuyết The Broken Arms of the Venus de Milo (Agra, Athens, 2002), truyện kể God’s Dog (Kastaniotis, 1998), và tác phẩm quan trọng For a Theory of Writing (Exantas,1990).
 
Những bản dịch Việt ngữ thơ văn Nanos Valaoritis sau đây là để tặng John và Paula Saltas, hai người bạn Hi-lạp ở tòa soạn The Salt Lake City Weekly, những người đã làm tôi yêu mến Hi-lạp hơn với những chồng sách báo mấy năm gần đây không ngừng đến tay tôi từ chỗ quê hương tìm thấy được của mình.
 
---------------
[*] Dialogism là từ được lý thuyết gia người Nga Mikhail Bakhtin đặt ra, để nói đến sự tham dự đua tranh của nhiều tiếng nói trong cùng một văn bản.
 
 
 

Nghệ thuật thơ

 
Thế rồi nhà thơ viết giam mình trong một căn phòng
Một bài tiểu luận nghiền ngẫm đầy sự tuyệt vọng
Thế rồi nhà thơ viết giam mình trong một cái tháp
Một thiên anh hùng ca dài mười chín tập
Thế rồi nhà thơ viết tự giam trong chính mình
Một bài phê bình thơ ca những thời đại khác
Thế rồi nhà thơ viết viết lui viết tới viết đi viết lại
Một độc thoại nội tâm đầy sự u buồn
Thế rồi nhà thơ viết giam mình trong một hầm chứa
Một bài thơ giả dối chẳng có một chút nội dung
Thế rồi nhà thơ viết giam mình trong phòng vệ sinh
Bài thơ cuối cùng của mình khi chàng cắt mạch máu để hở
Thế rồi nhà thơ viết giam mình trong phòng nhỏ
Những lời than vô tận về một con người bị giam cầm
Thế rồi nhà thơ viết sau những cánh cửa khóa kín
Bất cứ gì thoắt đến trong đầu chàng không hiệu chỉnh
Thế rồi nhà thơ viết chỉ với trí óc của mình
Những kiệt tác đồ sộ mà chàng lập tức quên ngay
Thế rồi nhà thơ viết những lá thư cho một thiếu nữ
Thư sau đó chàng xé nát và liệng vào giỏ rác
Thế rồi nhà thơ viết, viết lại rồi lại viết
Vẫn câu thơ ấy rồi đem đổi đi đổi lại nhiều lần
Thế rồi nhà thơ viết chẳng một chút suy nghĩ
Sẽ nói gì ngày sau về những gì chàng viết ngày nay
Thế rồi nhà thơ viết trong một tập ghi chép cũ mèm
Những ý kiến, đoạn rời và châm ngôn từ sách của người khác
Thế rồi nhà thơ viết khi dựa trên thực nghiệm đi tìm
Con đường chàng trong bóng tối với đèn nhoá sáng trong đầu
Thế rồi nhà thơ viết ra tất cả những gì trong ý nghĩ chàng
Không biết là có thể không ai hiểu được mình
Thế rồi nhà thơ viết với đầu tóc rối bù
Và đọc những gì chàng đã viết một trên tờ giấy trắng
Những câu rất nhỏ nói lên cùng một chuyện
Thế rồi nhà thơ viết về những bóng ma tuyệt đẹp
Và hai bài thơ thương cảm mỗi bài viết cho một người chúng ta
Thế rồi nhà thơ viết bằng cây bút bi
Những khổ thơ châm biếm và bi thương không bao giờ dứt
Thế rồi nhà thơ viết giống như một dòng nước chảy
Những câu thơ không kiềm chế thơ đến đâu viết đến đấy
Thế rồi nhà thơ viết dưới bóng cây hồ trăn
Những câu ngắn dí dỏm thanh nhã cho những người chàng nhớ
Thế rồi nhà thơ viết trên một tờ giấy cói
 
                                          HỒI KÝ CỦA CHÀNG
 
 
 

Trứng hay Phong cảnh

 
Đó là một phong cảnh
Và trong phong cảnh là một đài kỷ niệm
Và trong đài kỷ niệm một thùng hàng lớn
Và trong thùng hàng lớn một cái trứng
Và trong cái trứng một ký hiệu
Đến nay vẫn nằm trong bóng tối,
 
Và mọi người tìm cách làm sáng tỏ
Cái thần bí bao lâu nay không giải thích
Và tìm cách dùng sức rút ra khỏi
Thùng hàng chứa cái phong cảnh và khỏi phong cảnh
Cái đài kỷ niệm
Và khỏi đài kỷ niệm cái ký hiệu và khỏi ký hiệu cái trứng.
 
 
 

Thơ có nghĩa gì đối với tôi

 
Tôi tin rằng thơ là một cách thế phát biểu cổ xưa, mật thiết gắn liền với chữ. Ta không thể quan niệm thế giới mà không có hình ảnh. Thế giới giống như một thành phố được xây bằng những viên gạch là những chữ có tô màu. Màu chính của những viên gạch này là màu đỏ đất. Nói cách khác, tôi chỉ phản đối mỗi một chỗ là thơ, mặc dù thường không phải là thức ăn tinh thần, lại là cái quan trọng hơn cả cái ta cần, bởi lẽ nhiều chữ ta dùng vẫn không đạt được cái thơ của thơ vì thơ. Tất cả những tủ chứa của chúng ta không phải chỉ chất đầy những cụm từ vô nghĩa mà còn có cả những áo quần và giày dép không còn hợp thời trang. Thơ có một tác động rất lạ với trẻ em. Nó làm cho các em trông sạch sẽ và ăn uống ít đi. Chó sói, tôi nghe người ta bảo, đi vào thành phố bằng thơ. Chúng dùng thơ làm tuyết. Thơ tình, mặc dù rất khác với sự yêu thơ, không làm phiền tôi chút nào. Tôi thích nó. Tôi thích nó. Dante tin vào thần học của tình yêu (hay tình yêu thần học), Byron giải phóng Cô gái thành Athens[*] thoát khỏi đám người tình ma quỷ của nàng. Wordsworth, Keats và Bầu đoàn họp thành một nhóm khép kín sáng chói đáng được chú ý. Vô nghĩa có nghĩa là KHÔNG-NGHĨA. Cái thích cà phê của tôi là gần nhất và là cái bị lấy đi xa nhất khỏi ý niệm tôi thích “màu đen”. Tôi yêu mến “những ý nghĩ đen” trong một tách cà phê Thổ-nhĩ-kỳ. Thơ là cái giúp người sống được chết và người chết được sống. Cả hai đối với nhau giống như cả hai đối với tôi: những họ hàng xa. Từng suốt đời sống trong vòng tay của thơ, giờ đây tôi nâng niu thơ trong vòng tay của tôi. Tôi đem thơ phân phát cho những người không còn lưu tâm đến cuộc đời (thường thì họ không sẵn sàng cho chuyện này) bất cứ kiểu cuộc đời nào họ thích nghĩ đến nhiều nhất, gần như là bất tận.
 
 
-----------
[*] “Cô gái thành Athens” là tên một bài thơ bốn khổ nổi tiếng của Lord Byron [1788-1826], được viết khi ông rời khỏi Athens [1810] để tặng cô con gái bà chủ nhà của ông, nhưng tặng cô nào trong số ba cô đều dưới 15 tuổi này thì không thấy nói rõ, bởi vì ông thú nhận là... “yêu muốn chết” ba Cô gái Hi lạp ở Athens, là chị em, cùng sống trong một nhà với tôi, tên ba nữ thần ấy là Teresa, Mariana, và Kattinka, trong số có hai cô sẵn sàng theo tôi về Anh quốc... [thư cho H. Dury, ngày 3 tháng Năm 1810.]
 
“Nghệ thuật thơ” và “Trứng hay phong cảnh” dịch từ bản tiếng Anh “Poetic Art” và “Egg or Landscape” [Kimon Friar] trong tuyển tập thơ song ngữ A Century of Greek Poetry 1900-2000, do Peter Bien, Peter Constantine, Edmund Keeley, Karen Van Dyck tuyển chọn và biên tập, 996 trang (Cosmos Publishing, 2004). “Thơ có nghĩa gì đối với tôi” dịch từ nguyên tác tiếng Anh “What Poetry Means To Me” của Nanos Valaoritis trong Nanos Valaoritis, My Afterlife Guaranteed & Other Narratives (San Francisco: City Lights Books, 1990). Người dịch xin chân thành cám ơn Ms. Aphrodite Angelides ở Salt Lake City đã làm sáng tỏ từ Hi lạp fakos [flashlight] và góp ít nhiều ý kiến giúp hoàn thành bản Việt ngữ “Nghệ thuật thơ”.
 

Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021