thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Tính chính trị của ngôn ngữ

 

Ngôn ngữ nào cũng có tính chính trị, hơn nữa, có thể nói, trong lãnh vực văn hóa, không ở đâu tính chính trị lại thể hiện rõ và sâu như trong ngôn ngữ.

Tính chính trị ấy thể hiện ở hai góc độ: một, bên trong, từ ngay trong bản chất của ngôn ngữ; và hai, bên ngoài, từ cách ứng xử với ngôn ngữ của con người, hoặc cụ thể hơn, của các thế lực chính trị trong xã hội.

Nói đến bản chất của ngôn ngữ, không thể không nhắc đến Ferdinand de Saussure (1857-1913), người được xem là cha đẻ của ngành ngôn ngữ học hiện đại và cũng là người đặt nền tảng cho cấu trúc luận (structuralism) và ký hiệu học (semiotics), hai trường phái có ảnh hưởng sâu rộng không những trong ngôn ngữ học mà cả trong triết học, phê bình và nghiên cứu văn học cũng như nhân chủng học, văn hóa học và xã hội học.

Để tìm hiểu bản chất của ngôn ngữ, Saussure bắt đầu bằng phương pháp loại trừ. Thứ nhất, ông loại trừ khía cạnh lịch đại (diachronic) và chỉ tập trung vào khía cạnh đồng đại (synchronic) của ngôn ngữ, nghĩa là, ông bỏ qua ngôn ngữ học lịch sử với những sự tiến hóa và thay đổi theo thời gian để chỉ tập trung vào ngôn ngữ học miêu tả, ở đó, ông phân tích ngôn ngữ như cách nó đang được sử dụng trong một thời điểm nhất định, đặc biệt trong hiện tại. Thứ hai, ở khía cạnh đồng đại, ông loại trừ các lời nói cụ thể của từng cá nhân (parole/speech) để chỉ tập trung vào ngôn ngữ như một hệ thống (language) với những quy luật và quy tắc cấu tạo chung được mọi người trong cộng đồng ngôn ngữ ấy học tập, nhập tâm và vận dụng trong các hoạt động giao tiếp. Nói cách khác, theo Saussure, lời nói có tính chất cá nhân và tạm thời, vừa chịu ảnh hưởng của tâm lý người phát ngôn vừa chịu ảnh hưởng của môi trường với những tương tác của nhiều yếu tố xã hội khác nhau. Chúng xuất hiện rồi chúng biến mất. Chúng thường xuyên thay đổi. Ngôn ngữ, ngược lại, với tư cách một hệ thống, có tính chất trừu tượng và bền vững, gắn liền với nhận thức, là nền tảng để từ đó người ta tổ chức các lời nói. Chính ngôn ngữ, hiểu theo nghĩa ấy, mới là yếu tố căn bản và là đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học. Thứ ba, trong ngôn ngữ, Saussure loại trừ toàn bộ các liên hệ bên ngoài, ví dụ giữa ngôn ngữ và hiện thực, để chỉ tập trung vào cấu trúc nội tại của ngôn ngữ, cái ông xem như một hệ thống ký hiệu (system of signs). Với ông, mỗi ký hiệu bao gồm hai khía cạnh: cái biểu đạt (signifier) – chủ yếu là phần âm thanh của chữ (ví dụ: âm “chó”) - và cái được biểu đạt (signified) – tức ý niệm do âm thanh ấy gợi lên trong óc người nghe (tức ý niệm “chó”, con vật chúng ta thường nuôi trong nhà). Saussure nhấn mạnh: “Một ký hiệu không phải là dấu nối giữa một vật và một cái tên mà là giữa một ý niệm và một khuôn âm”.[1] Cái gọi là ý nghĩa của ngôn ngữ, do đó, theo cách nhìn của Saussure, chỉ là quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt cũng như sự khác biệt giữa cái biểu đạt này với cái biểu đạt khác. Hiện thực bên ngoài ngôn ngữ cũng như cả người nói lẫn người nghe đều bị loại trừ.

Ảnh hưởng của Saussure, như trên đã nói, cực kỳ sâu rộng, góp phần hình thành nên diện mạo của toàn bộ các ngành khoa học xã hội và nhân văn trên thế giới trong suốt thế kỷ 20. Ảnh hưởng ấy đến từ hai nguồn: những người theo ông và những người chống lại ông. Trong số những người chống lại Saussure, nổi bật nhất là một số lý thuyết gia người Nga hoạt động chủ yếu trong thập niên 1920 như Mikhail M. Bakhtin (1895-1975) và Valentin N. Voloshinov (1895-1936).[2] Cả hai đều theo khuynh hướng Mác xít nhưng cả hai đều, một, bị trù dập dưới chế độ Xô Viết và, hai, chỉ nổi tiếng ở phương Tây, đặc biệt qua các nhà hậu cấu trúc luận (poststructuralism) và hậu-Mác xít (post-Marxism) ở Pháp và ở Anh từ đầu thập niên 1960 trở đi. Cả hai đều, một mặt, ngưỡng mộ Saussure và đều tiếp nhận nhiều quan điểm đầy tính phát kiến của Saussure, nhưng mặt khác, đều phê phán Sassure là theo chủ nghĩa khách quan trừu tượng (abstract objectivism) khi loại trừ mọi mối quan hệ bên ngoài các ký hiệu. Theo cả hai, mỗi ký hiệu là một kiến tạo giữa những người mang tính xã hội trong tiến trình tương tác giữa họ với nhau. Bởi vậy “các hình thức của ký hiệu đều được điều kiện hóa, trước hết, bởi các tổ chức xã hội của các thành viên tham gia và cũng bởi các điều kiện trực tiếp trong sự tương tác giữa họ với nhau.”[3] Từ đó, họ đi đến một số kết luận chính, trong đó, đáng chú ý nhất là: một, ngôn ngữ, tự bản chất có tính chất tương thoại (dialogic) và đa thanh (heteroglossia), bao gồm nhiều người với nhiều cách nói khác nhau: chúng tồn tại bên nhau, nhiều lúc trộn lẫn vào nhau; và hai, chúng ta không thể hiểu được các sáng tạo ngôn ngữ mà không chú ý đến các ý nghĩa và giá trị mang tính ý thức hệ tiềm ẩn bên trong chúng.[4]

Từ nhiều góc độ và với nhiều mức độ khác nhau, hầu hết giới nghiên cứu đều đồng ý với Bakhtin và Voloshinov: ngôn ngữ không thể thoát được chính trị. Michel Foucault (1926-84) cho kiến thức tự nó là một biểu hiện của quyền lực.[5] Mà quyền lực lại là chính trị. Và kiến thức thì lại được chuyên chở bởi ngôn ngữ. Chỉ bởi ngôn ngữ. Bởi vậy cũng có thể nói ngôn ngữ là một thứ quyền lực. Pierre Bourdieu cũng cho mọi ngôn ngữ đều có tính chính trị: Trong ngôn ngữ không có từ nào là ngây thơ và cũng không có từ nào là trung tính: từ, ngay cả những từ chỉ khẩu vị (taste) quen thuộc thường được nhìn nhận với những ý nghĩa khác nhau, thậm chí đối lập nhau từ tầng lớp xã hội này đến tầng lớp xã hội khác.[6] Erving Goffman (1922-82), trước Foucault và Bourdieu, quy tính chính trị của ngôn ngữ vào các quan hệ xã hội: Theo ông, việc hành ngôn bao giờ cũng gắn liền với ý niệm sĩ diện (face), bao gồm hai khía cạnh chính: sĩ diện tiêu cực (negative face) và sĩ diện tích cực (positive face). Cứ hễ mở miệng ra nói điều gì đó với ai đó, dù muốn hay không chúng ta cũng tạo cơ hội cho người khác hoặc lắng nghe hoặc làm lơ, hoặc đồng ý hoặc phản đối, hoặc thương yêu hoặc ghét bỏ, hoặc kính trọng hoặc khinh khi. Bởi vậy, trước và trong khi nói, không ai không ít nhiều đắn đo cân nhắc.[7] Có thể lấy bài ca dao quen thuộc này làm ví dụ:

Hôm qua tát nước đầu đình,
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen.
Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà.
Áo anh sứt chỉ đường tà,
Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu.
Áo anh sứt chỉ đã lâu,
Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng.
Khâu rồi anh sẽ công,
Đến khi lấy chồng anh sẽ giúp cho.
Giúp cho một gánh xôi vò
Một con lợn béo, một vò rượu tăm
Giúp cho đôi chiếu em nằm
Đôi chăn em đắp, đôi tằm em đeo.
Giúp cho quan tám tiền cheo
Quan năm tiền cưới, lại đèo buồng cau.

Cả bài ca dao chỉ là một lời tán tỉnh của một anh nông dân với một cô thôn nữ. Chiến lược tán tỉnh ấy dựa trên ba yếu tố chính: thứ nhất, về cớ: cái áo bỏ quên; thứ hai, về cấu trúc tự sự của câu chuyện: quan hệ giữa nhờ vả và trả công; và thứ ba, quan trọng nhất, về ngôn ngữ: thay đổi đại từ xưng hô từ “em” sang “cô ấy” (câu thứ 8, “Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng”) và rồi quay trở lại với “em”. “Cô ấy”, ngôi thứ ba số ít, thật ra, cũng chỉ là “em”, ngôi thứ hai, người anh đang nói chuyện thôi. Nhưng sao lại là “cô ấy”? Lý do chính là vì dè dặt: anh không chắc về sự hưởng ứng của cô gái. Đó là cách nói lảng. Để thăm dò. Và cũng để phòng thủ. Như một cách giữ thể diện nếu bị cô gái từ chối hoặc có phản ứng bất lợi. Sau khi an tâm hẳn, anh mới quay về với chữ “em”: người anh muốn nhờ vả và trả công, tức người anh muốn tỏ tình và muốn lấy làm vợ, không ai khác hơn là chính “em”.

Nói một cách tóm tắt, theo tôi, về bản chất, ngôn ngữ có hai chức năng chính: một, định danh sự vật, hiện tượng hoặc ý niệm; và hai, giao tiếp với người khác hoặc với chính mình (trường hợp độc thoại hoặc lúc đang tưởng tượng hay suy nghĩ).

Với chức năng định danh, ngôn ngữ biến thế giới con người thành một thế giới được ký hiệu hóa (signification), nghĩa là thế giới của ý nghĩa. Nhưng ý nghĩa lại là một thứ quan hệ, trước hết, như Saussure từng nhấn mạnh, là quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt, sau đó, như các nhà hậu cấu trúc luận và giải kiến tạo (deconstruction) thêm vào, là trùng trùng điệp điệp những thứ quan hệ khác: giữa cái biểu đạt này với một hoặc nhiều cái biểu đạt khác, giữa cái được biểu đạt này với một hoặc nhiều cái biểu đạt hoặc cái được biểu đạt khác, giữa người phát ngôn (addresser/enunciator) với người nhận sự phát ngôn (addressee/enunciatee) và, rộng hơn, giữa văn bản này với văn bản khác, từ đó, nảy ra một yếu tố khác của ký hiệu hóa: giá trị.

Trong ngôn ngữ, do đó, không phải chỉ có ý nghĩa mà còn có giá trị. Mỗi ngôn ngữ có một bảng giá trị riêng. Ví dụ, người Việt Nam sống với từ “chó” trong khi người nói tiếng Anh sống với từ “dog”: Hai từ ấy vừa giống nhau lại vừa không giống nhau. Giống ở ý nghĩa: cả hai từ đều chỉ con vật bốn chân vẫn thường được nuôi trong nhà. Nhưng khác ở giá trị: “chó” mang hàm ý khinh miệt mà “dog” không có. Khinh miệt đến độ, thứ nhất, nó được dùng chủ yếu để chửi, lại là một trong những cách chửi nặng nề nhất trong tiếng Việt; và thứ hai, người ta cảm thấy ngại ngùng khi dùng từ “chó” để chỉ một món ăn dân dã, khoái khẩu và quen thuộc: lúc ấy chó sẽ biến thành cầy hoặc nai đồng quê hoặc một thứ gì khác. Để chỉ những người thuộc phái nữ, tiếng Việt có hai từ: “phụ nữ” và “đàn bà”. Trong hai từ ấy, chữ “phụ nữ” có âm hưởng lịch sự và trang trọng hơn hẳn chữ “đàn bà”. “Phụ nữ” là từ có tính nghi thức (formal) để chỉ người hoặc những người mình kính trọng; “đàn bà” là từ bình dân, được dùng trong trường hợp hoặc thân mật hoặc khinh thường. Thế nhưng, “phụ nữ”, vốn là từ Hán Việt, trong gốc gác của nó, ở Trung Quốc, lại không sang và không nhã như trong tâm thức người Việt: Về từ nguyên, chữ “nữ” được tượng trưng bằng hình ảnh một người đang quỳ với hai tay chắp lại (女); chữ “phụ”, chỉ đàn bà, được tượng trưng bằng hình ảnh một người nữ với cây chổi (婦), nghĩa là kẻ mà số phận bị buộc chặt vào các công việc nội trợ, chỉ quanh quẩn trong nhà, hoặc tệ hơn, trong bếp. Người Việt Nam không có tinh thần trọng nam khinh nữ một cách nặng nề như người Trung Quốc nhưng trong phạm vi ngôn ngữ rõ ràng vẫn có sự ưu ái dành cho phái nam. Trong hệ thống từ chỉ thân tộc trong tiếng Việt, số từ chỉ bên nội và nam giới nhiều hơn hẳn bên ngoại và nữ giới: Bên nội, ngang hàng với bố, phía nam giới, có sự phân biệt giữa anh (bác) hay em (chú); phía nữ giới, chỉ có chữ cô cho cả chị lẫn em; bên ngoại, ngang hàng với mẹ, chỉ có cậu và dì, bất kể là anh/chị hay em.

Bởi vậy, nhiều lý thuyết gia cho ngôn ngữ không những phản ánh hiện thực mà còn kiến tạo hiện thực. Thật ra, không có hiện thực chung chung. Hiện thực bao giờ cũng là những gì được khái niệm hóa và phạm trù hóa qua ngôn ngữ. Cứ nhìn quanh những người cùng máu mủ và cùng thế hệ trong gia đình chúng ta thì biết. Thì cũng là người vậy thôi. Thế nhưng, nhìn những người ấy, người nói tiếng Anh, chỉ thấy có hai, chủ yếu theo phái tính: brother/sister; người nói tiếng Việt lại thấy đến ba, không những theo phái tính mà còn theo tuổi tác: anh/chị/em. Nhìn lên các bậc bề trên trong gia đình, người nói tiếng Anh chỉ thấy ông bà (grandparents), người nói tiếng Việt không những chỉ thấy ông bà mà còn thấy cả phía nội (ông/bà nội) và phía ngoại (ông/bà ngoại) và đằng sau chúng là một lịch sử dằng dặc dựa trên chế độ phụ hệ, ở đó không những chỉ có sự phân biệt về phái tính mà còn có cả sự phân biệt giữa tình và lý, giữa nguyên tắc và thực tế (cháu bà nội, tội bà ngoại). Nhìn ra ngoại giới chung quanh, ở cái nơi người nói tiếng Anh thấy hai màu (blue/green), người Việt Nam chỉ thấy có một màu: xanh; nơi người Việt Nam thấy có hai màu với hai sắc độ khác hẳn nhau: đỏ và hồng, người Trung Hoa chỉ thấy một: hồng (紅). Edward Sapir và Benjamin Lee Whorf cho cách con người cảm nghiệm và nhận thức về thế giới bị quy định bởi cái ngôn ngữ người ấy sử dụng. Mọi người, dù muốn hay không, cũng nhìn thế giới qua một lăng kính nhất định: lăng kính ấy được hình thành bởi ngôn ngữ.[8] Dĩ nhiên, điều này không hề phủ nhận một chiều ngược lại: cách chúng ta nhìn thế giới cũng sẽ ảnh hưởng đến ngôn ngữ mà chúng ta sử dụng.

Trong cái gọi là hiện thực được khái niệm hóa và phạm trù hóa, quan trọng nhất là các quan hệ xã hội và ý niệm về bản sắc cá nhân.

Khi phát ngôn, người nói tiếng Anh dùng đại từ “I/me” như một cách xác định quan hệ nói-nghe bình đẳng với người đối thoại, trong khi đó, người Việt Nam sẽ dùng hàng loạt các đại từ hoặc đại từ tạm thời như “tôi”, “anh”, “chị”, “em”, “cháu”, “thầy”, “cô”… mượn từ lớp danh từ chỉ thân tộc hoặc nghề nghiệp. Nói cách khác, khi mở miệng, người nói tiếng Anh (hoặc người Tây phương nói chung) chỉ có một quan hệ: quan hệ hành ngôn; người Việt lại có một thứ quan hệ khác: quan hệ gia đình và xã hội. Xã hội, hoặc phần lớn cái gọi là xã hội ấy, với người Việt Nam, thật ra, cũng chỉ là một thứ gia đình mở rộng: người này là ông/bà; người kia là chú/bác/cô/dì và người nọ là anh/chị/em/con/cháu. Quan hệ gia đình chịu sự tác động của hai yếu tố: vai vế và tuổi tác. Cũng có thể nói, người Việt Nam, trong lúc chuyện trò, bao giờ cũng tự định nghĩa mình bằng một trong hai hoặc cả hai tiêu chí ấy: vai vế và tuổi tác. Bản sắc của cá nhân, một phần, được định hình ngay từ hai yếu tố ấy.

Điều đó có nghĩa là ngôn ngữ không phải chỉ kiến tạo hiện thực: Nó còn kiến tạo nên con người. Nói cách khác, thoạt kỳ thủy, ngôn ngữ vốn là sản phẩm của con người nhưng sau đó, con người lại bị biến thành sản phẩm của ngôn ngữ: con người hành xử và suy nghĩ trong cái thế giới do ngôn ngữ mình tạo ra. Một ngôn ngữ không có số đếm, dù là những số căn bản nhất như ngôn ngữ của bộ lạc Piraha ở bên bờ sông Maici sâu trong khu rừng rậm Amazon, sẽ không thể có ý niệm về số lượng, kể cả số lượng về thời gian: với họ, đời sống là những gì đang diễn ra trước mắt. Không có kiếp trước và không có kiếp sau. Không có thời gian, họ cũng không có chuyện hay truyện vốn là những gì không những cần thời tính mà còn cần cả những quan hệ mang thời tính: nguyên nhân và kết quả.[9] Một ngôn ngữ không có những từ như “tự do”, “dân chủ” hay “nhân quyền”, chẳng hạn, hẳn sẽ không thể cảm nhận hết nỗi đau đớn và nhục nhã của trạng thái bị ràng buộc hay áp bức và chà đạp.

Trong quan hệ xã hội, một khía cạnh quan trọng và nổi bật nhất là quan hệ phái tính. Ngay cách phân chia phái tính ra làm hai ở hầu hết các ngôn ngữ (nam/nữ; male/female) đã loại trừ những người đồng tính: Không nằm trong hai phạm trù chính, họ bị xem là bất bình thường, là bệnh hoạn hoặc kỳ quái (queer). Giữa nam và nữ, hầu hết các ngôn ngữ đều thiên vị phái nam. Trong tiếng Anh, đàn ông (man) tượng trưng cho loài người nói chung (mankind / human / manhood / manpower / man-made / one man show); trong chữ Hán, có khoảng 250 từ có chứa đựng từ tố nữ, trong đó, ngoài những từ thuần miêu tả, còn lại hầu hết đều mang nghĩa tiêu cực, như một cách đồng nhất phụ nữ với cái xấu hoặc sự lệ thuộc: chữ “gian” (gian đối) được tạo thành bởi hình ảnh ba người phụ nữ (姦); trong chữ “nộ” (giận dữ) cũng được tạo thành bởi hình ảnh trái tim và người phụ nữ (怒); trong chữ “đố” (妒, ganh ghét); chữ “yêu” (要, yêu sách, đòi hỏi); chữ “nô” (奴, đầy tớ); chữ “như” (如, tùy tùng) đều có bộ nữ cũng có bộ nữ bên cạnh hoặc phía dưới, v.v.[10]

Chính vì vậy, nhiều nhà nữ quyền luận ở Tây phương thường cho ngôn ngữ phản ánh cái nhìn của nam giới, nhằm xây dựng những quan hệ xã hội trong đó ưu thế thuộc hẳn về nam giới; tự bản chất, nó là sản phẩm của nam giới và được kiểm soát bởi nam giới. Đó cũng là chính trị. Thứ chính trị mang tính duy dương vật luận (phallogocentrism/phallocentrism).

Bên cạnh quan hệ về phái tính, còn có quan hệ về tuổi tác. Tiếng Việt là một ví dụ. Thứ nhất, trong hệ thống từ vựng chỉ quan hệ thân tộc bằng tiếng Việt, chúng ta thấy sự kỳ thị về tuổi tác rất rõ: Số từ chỉ bậc trên, từ bố mẹ trở lên (bố/mẹ, chú, bác, cô, dì, cậu, dượng…), nhiều hơn hẳn số từ chỉ bậc dưới (chỉ có chữ “con” cho cả con trai lẫn con gái, con rể lẫn con dâu; và “cháu” cho cả cháu nội lẫn cháu ngoại cũng như cháu họ). Bậc ngang hàng với chúng ta, ở bề trên, tiếng Việt phân biệt nam và nữ: Nam là “anh”, nữ là “chị”; nhưng thuộc bề dưới thì chỉ có một chữ “em” cho cả hai phái. Khi cần phân biệt, chúng ta phải thêm “em trai” hay “em gái”. Nhưng đó là ngữ chứ không phải là từ. Thứ hai, trong cách nói lịch sự, tất cả các nguyên tắc đều chỉ được áp dụng từ dưới lên trên: trẻ, nói chuyện với người lớn, phải “thưa”, “dạ” ở đầu câu và “ạ” ở cuối câu; còn già, nói chuyện với trẻ, mọi nguyên tắc đều được miễn trừ. Chỉ cần thân mật là đủ. Chứ không cần lịch sự.

Bắt chước cách nói của các nhà nữ quyền luận, chúng ta cũng có thể kết luận: tiếng Việt chủ yếu là ngôn ngữ của người già.

Về chức năng giao tiếp, ở mọi thời và mọi nơi, với những mức độ khác nhau, con người sử dụng ngôn ngữ hoặc như một công cụ hoặc như một vũ khí hoặc cả hai cùng lúc. Với tư cách công cụ, ngôn ngữ được dùng để chào hỏi, mời mọc, để truyền đạt thông tin và ý tưởng, để bộc lộ cảm xúc, để làm sáng tỏ một vấn đề gì đó hoặc, nhiều nhất, chỉ để tạo niềm vui trong các quan hệ liên cá nhân như hầu hết các câu chuyện phiếm hàng ngày của chúng ta. Với tư cách vũ khí, ngôn ngữ được sử dụng để tố cáo, để trấn áp, để hạ nhục, để đe dọa, để khiêu khích, để lừa dối, hoặc để làm vừa lòng hay đau lòng người khác. Xin lưu ý là không phải chỉ với tư cách một vũ khí, ngôn ngữ mới có tính chính trị. Tính chính trị thể hiện ngay cả khi người ta chỉ sử dụng ngôn ngữ như một công cụ. Bất cứ diễn ngôn nào nhằm tới ý đồ tác động lên người khác, dù tốt hay xấu, dù trong quan hệ riêng tư hay công cộng, đều có tính chính trị.

Xin nêu ví dụ từ một đoạn đối thoại giữa Lộc và mẹ Lộc, bà Án, trong cuốn Nửa chừng xuân của Khái Hưng.

Sau khi sống chung với Mai một thời gian mà không báo cho mẹ biết, Lộc về thăm mẹ với ý định xin mẹ cho phép được chính thức cưới Mai. Trước, Lộc biết là mẹ không đồng ý. Lý do là giữa hai người không môn đăng hộ đối: Mai là một cô gái mồ côi và nghèo nàn. Bởi vậy, đến gặp mẹ, Lộc không giấu được sự lo lắng và đau khổ. Bà Án hỏi:

“Chuyện gì thế con?”
 
Lộc thưa:
 
“Bẩm mẹ, mẹ có tha tội cho con thì con mới dám thưa.”
 
“Con cứ nói.”
 
Lộc cúi đầu nhìn xuống đất thì thầm:
 
“Cô Mai...”
 
Lộc bỗng ngừng lại. Bà Án hỏi:
 
“Con Mai, có phải con bé nhà quê nó rủ rê, nó quyến rũ anh không?”
 
Lộc mỉm cười:
 
“Bẩm mẹ, nói con quyến rũ người ta thì đúng hơn?”
“Ừ, thế sao?”
 
“Bẩm mẹ, bây giờ cô ấy vẫn ở với con, cô ấy đã...”
 
Bà Án đứng phắt dậy trỏ tay vào mặt con, mắng:
 
“Thế thì mày giỏi thật...Mày dối tao, mày đánh lừa tao... mày đi thuê nhà riêng để ở với nó. Mày còn coi tao ra gì nữa, thằng kia?”[11]

Ngôn ngữ của hai mẹ con Lộc khác hẳn nhau: Lộc thì lúc nào cũng cung kính, còn mẹ Lộc thì lúc ngọt ngào, lúc cảnh giác, lúc đầy quyền uy. Trong một mẩu đối ngoại ngắn, cách bà gọi Lộc thay đổi ba lần: thoạt đầu là “con”; sau, “anh”; và cuối cùng, “mày”. Mỗi cách gọi không những gắn liền với một trạng thái tâm lý mà còn với bản chất của quan hệ. Thì cũng vẫn là mẹ con thôi. Nhưng khi gọi Lộc bằng “con”, bà Án là một người mẹ; bằng “anh”, bà trở thành một người đối thoại đang thăm dò và dẫn dắt câu chuyện; và bằng “mày”, bà là chủ gia đình, kẻ quyết định, người muốn giành tiếng nói cuối cùng trong chuyện hôn nhân của con cái. Có thể nói thao tác hành ngôn của bà Án thực chất là một thao tác chính trị: từ đầu đến cuối, qua ngôn ngữ, lúc nào bà cũng phô diễn quyền lực trên đứa con trai, lúc là quyền lực của tình thương, lúc là quyền lực của lý trí và cuối cùng, quyền lực của luân lý vốn gắn liền với vị thế của một người gia trưởng.

Ở trên, tôi đã chứng minh tính chính trị của ngôn ngữ từ chính bản chất của ngôn ngữ. Tính chính trị ấy cũng thể hiện rất rõ qua cách loài người hành xử với ngôn ngữ. Cái gọi là “loài người” ấy có thể được nhìn từ ba phạm vi khác nhau: quốc tế, quốc gia và liên cá nhân (interpersonal).

Trước hết, ở phạm vi quốc tế, 10 ngôn ngữ được nói nhiều nhất hiện nay là: tiếng Quan Thoại, tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Hindi (ở Bắc và Trung Ấn Độ), tiếng Ả Rập, tiếng Bengali (ở Bangladesh và Đông Ấn), tiếng Nga, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Nhật, tiếng Đức và tiếng Pháp. Tuy nhiên, cách phân bậc dựa theo người nói như vậy không có ý nghĩa gì nhiều: Nó chỉ tùy thuộc vào dân số. Nước càng đông dân, vị trí tiếng nói của nó càng cao. Ví dụ, tiếng Việt, ai cũng biết, chưa có vị thế gì trên thế giới cả, nhưng vẫn đứng trong danh sách 15 ngôn ngữ được nói nhiều nhất. Trong bảng danh sách kể trên, hai thứ tiếng Hindi và Bengali cũng không có ảnh hưởng gì ngoài Ấn Độ và Bangladesh. Tất cả, từ tiếng Việt đến tiếng Hindi và tiếng Bengali, dù có đông người nói, vẫn không phải là ngôn ngữ quốc tế. Một số nhà ngôn ngữ chia ngôn ngữ quốc tế (international language) thành hai loại: liên ngữ (interlingual) và nội ngữ (intralingual). Liên ngữ là một ngôn ngữ được học và được sử dụng ở nhiều quốc như một ngôn ngữ thứ hai – hoặc ngoại ngữ - bên cạnh tiếng mẻ đẻ của họ (ví dụ tiếng Anh ở phần lớn các quốc gia trên thế giới), trong khi nội ngữ một ngôn ngữ được xem như ngôn ngữ thứ nhất ở nhiều quốc gia khác nhau (ví dụ tiếng Đức ở Đức, Áo, Thụy Sĩ và Liechtenstein).[12] Tính quốc tế của liên ngữ, do đó, cao hơn hẳn nội ngữ. Cái gọi là liên ngữ quốc tế có nhiều mức độ khác nhau. Cao nhất là ngôn ngữ phổ thông (universal language). Theo Ali A. Mazrui, để được xem là một ngôn ngữ phổ thông, cần có bốn điều kiện:[13]

1. được hiểu ít nhất tại 20 quốc gia;
 
2. được sử dụng ít nhất tại 10 quốc gia như một ngôn ngữ chính thức trong lãnh vực kinh doanh;
 
3. có ít nhất 500 triệu người nói thông thạo; và
 
4. trải rộng ít nhất trên hai lục địa.

Theo bốn tiêu chuẩn ấy, trên thế giới hiện nay chỉ có ba ngôn ngữ đáng được gọi là phổ thông: tiếng Anh, tiếng Pháp và phần nào, tiếng Tây Ban Nha. Tiếng Đức chỉ là một nội ngữ quốc tế (international intralingual), chỉ phổ biến trong một số nước nhất định ở châu Âu. Tất cả những thứ tiếng còn lại đều chỉ giới hạn trong lãnh thổ của họ và nếu ra ngoài, chủ yếu chỉ dừng lại ở các cộng đồng di dân. Không có quốc gia nào không phải của người Hoa mà lại xem tiếng Quan Thoại (hay tiếng Hoa nói chung) là ngôn ngữ thứ nhất cả. Ngay tiếng Nga vốn được bành trướng rất mạnh tại vùng Trung Á dưới chế độ cộng sản, nhưng khi Liên bang Xô Viết tan rã, các quốc gia Trung Á giành độc lập, ngôn ngữ được xem là chính thức tại các quốc gia ấy vẫn là tiếng mẹ đẻ của họ. Chứ không phải là tiếng Nga. Đứng về phương diện phổ thông, hiểu theo nghĩa trên, ngay cả tiếng Bồ Đào Nha cũng phổ thông hơn tiếng Quan Thoại, tiếng Nga, tiếng Đức, tiếng Nhật, tiếng Hindi và Bengali: ngoài Bồ Đào Nha, nó được sử dụng như một ngôn ngữ thứ nhất ở Brazil, Mozambique, Angola, Cape Verde, Guinea-Bissau và São Tomé và Príncipe; và là một trong các ngôn ngữ chính thức (chủ yếu cùng với tiếng bản địa) ở Macau, East Timor và Equatorial Guinea.

Nhìn vào ba ngôn ngữ được xem là phổ thông nhất thế giới ở trên, chúng ta thấy ngay một số đặc điểm:

Thứ nhất, tất cả đều là ngôn ngữ Âu châu. Từ góc độ lịch sử, điều đó không phải không đáng ngạc nhiên. Xuất phát điểm của ngôn ngữ là ở châu Phi (nơi các di chỉ đầu tiên về con người nguyên thủy được phát hiện). Nhiều nhà khoa học còn dám khẳng định dứt khoát: chính người Phi châu đã phát minh ra ngôn ngữ.[14] Vậy mà, lạ, trong các ngôn ngữ phổ thông cũng như khoảng 40 ngôn ngữ được nhiều người nói nhất hiện nay, không có ngôn ngữ nào có gốc gác từ Phi châu cả. Trong các ngôn ngữ phổ thông nhất cũng không có ngôn ngữ nào ở châu Á trong khi châu Á là nơi đông dân nhất, là một trong những cái nôi của văn minh nhân loại, và cũng là nơi đầu tiên biến ngôn ngữ thành thiêng liêng bằng cách dùng chúng để viết những cuốn kinh trong hầu hết các tôn giáo lớn nhất thế giới như kinh Vedas, Bhagavad Gita và Upanishads của Ấn Độ giáo, Tạng Kinh của Phật giáo, Tứ Thư của Nho giáo, Torah của Do Thái giáo, Kinh Thánh của Thiên Chúa giáo và kinh Qur’an của Hồi giáo. Có điều tất cả các cuốn kinh ấy đều không “cứu” được các ngôn ngữ Á châu. Trừ kinh Qur’an là cuốn kinh duy nhất tồn tại trong hình thức ngôn ngữ nguyên thủy (tiếng Ả Rập; nếu có dịch sang bất cứ thứ tiếng gì khác thì bao giờ nó cũng được in song ngữ, bên cạng nguyên tác), tất cả các kinh khác đều được lưu hành dưới các bản dịch (đặc biệt Kinh Thánh của Thiên Chúa giáo, cuốn sách được xem là được dịch ra nhiều ngôn ngữ nhất) hoặc vừa nguyên tác vừa dịch thuật (các kinh Phật).

Thứ hai, cả ba ngôn ngữ phổ thông nhất ấy đều gắn liền với chủ nghĩa thực dân, nếu không muốn nói, chúng trở thành phổ thông chủ yếu là bằng con đường thực dân hóa. Bắt đầu từ cuối thế kỷ 16 và đầu thế kỷ 17, đế quốc Anh đã mang quân đi chinh phạt thiên hạ. Vào đầu thế kỷ 20, đế quốc Anh chiếm một diện tích hơn 33 triệu cây số vuông, tức khoảng một phần tư diện tích trái đất, với dân số lên đến 450 triệu, khoảng một phần năm dân số cả thế giới lúc ấy. Nó rộng và lớn đến độ người Anh tự hào là mặt trời không bao giờ lặn trên đế quốc của họ. Từ giữa thế kỷ 20, sau đệ nhị thế chiến, Anh dần dần mất gần hết các thuộc địa. Nhưng ngay sau đó, họ kịp hình thành Khối Thịnh Vượng Chung (Commonweath of Nations) bao gồm 16 quốc gia khác nhau, ở đó, tiếng Anh vẫn giữ được địa vị nếu không độc tôn thì cũng chính yếu. Pháp cũng vậy. Cũng, từ thế kỷ 17, bắt đầu cuộc viễn chinh từ châu Á sang châu Phi và Bắc Mỹ, cũng xây dựng được một đế quốc có lúc rộng đến 13 triệu cây số vuông, chiếm gần một phần mười diện tích địa cầu, chỉ đứng sau Anh. Ở đâu Pháp cũng biến tiếng Pháp thành ngôn ngữ chính thức. Sau này, Pháp cũng mất gần hết các thuộc địa nhưng vai trò của tiếng Pháp vẫn còn khá mạnh trong khối nói tiếng Pháp (Francophone, bao gồm Burundi, Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Chad, Congo, Guinea, Luxembourg, Monaco, Rwanda, Senegal, Togo, Vanuatu, một phần Bỉ, một phần Thụy Sĩ, một phần Canada, v.v.). So với đế quốc Anh và đế quốc Pháp, đế quốc Tây Ban Nha xuất hiện sớm hơn, ngay từ thế kỷ 15. Đến thế kỷ 17, Tây Ban Nha trở thành đế quốc lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Gót chân của họ ngang dọc từ châu Âu sang châu Á, châu Phi và châu Mỹ, đặc biệt ở Nam Mỹ và Trung Mỹ. Từ thế kỷ 19, đế quốc Tây Ban Nha bắt đầu suy sụp, và từ giữa thế kỷ 20, mất gần hết các thuộc địa. Tuy chủ nghĩa thực dân Tây Ban Nha ra đi, tiếng Tây Ban Nha vẫn ở lại và, cho đến nay, vẫn là ngôn ngữ chính thức ở nhiều quốc gia độc lập: Boliva, Colombia, Costa Rica, Cuba, Ecuador, El Salvador, Equatorial Guinea, Guatemata, Honduras, Panama, Paraguay, Peru, Venezuela; và bán chính thức ở nhiều quốc gia khác: Argentina, Chile, Dominican Republic, Mexico, Nicaragua và Uraguay.

Như vậy, nguyên nhân chính khiến ba ngôn ngữ phổ thông nhất hiện nay trở thành phổ thông trên phạm vi toàn cầu là chủ nghĩa thực dân, một yếu tố hoàn toàn có tính chất chính trị. Điều đó cũng dễ hiểu. Mục tiêu quan trọng nhất của chủ nghĩa thực dân là đồng hóa các dân tộc thuộc địa. Có hai bình diện chính để đồng hóa: huyết thống và văn hóa. Trong hai bình diện ấy, việc đồng hóa về văn hóa nhanh và tiện nhất. Cốt lõi và cũng là phương tiện để đồng hóa văn hóa là ngôn ngữ: chủ nghĩa thực dân nào cũng nhắm, trước hết, đến việc đồng hóa ngôn ngữ. Ngay từ thế kỷ 15, Antonio de Nebrija đã nhận ra điều đó: “Ngôn ngữ bao giờ cũng là bạn đồng hành của đế quốc”. Giữa thế kỷ 20, Max Weinreich khẳng định lại điều đó, dưới hình thức khác: “Một ngôn ngữ là một phương ngữ với quân đội và hải quân.”[15] Nhưng ở đây lại có sự khác biệt giữa chủ nghĩa thực dân cổ đại và chủ nghĩa thực dân hiện đại: Để thực hiện mưu đồ đồng hóa, chủ nghĩa thực dân cổ đại, từ La Mã đến Trung Quốc, dựa trên văn tự (chữ La Tinh và chữ Hán); các chủ nghĩa thực dân hiện đại, từ Tây Ban Nha, Anh và Pháp, cũng như Bồ Đào Nha trước đó, dựa trên tiếng nói. Văn tự có thể thay thế: khi độc lập, các thuộc địa bỏ văn tự này để dùng văn tự khác, trong khi tiếng nói, một khi đã trở thành tiếng mẹ đẻ, cứ còn mãi, ngay cả khi chủ nghĩa thực dân đã bị đánh đổ và cáo chung.

Trong phạm vi quốc gia, việc hình thành ngôn ngữ chính thức bao giờ cũng đi liền với việc hình thành quốc gia. Tinh túy của quốc gia bao giờ cũng là ý niệm về một bản sắc chung. Ý niệm về bản sắc ấy được xây dựng từ nhiều yếu tố như một lịch sử chung, một truyền thống chung, một thị trường chung hoặc thậm chí, một huyết thống chung. Tất cả những cái gọi là chung ấy, thật ra, không hẳn đã là chung: Chúng trở thành chung, nghĩa là được phổ cập rộng rãi và trở thành niềm tin của quần chúng, từ đó, hình thành nên cái Benedict Anderson gọi là “cộng đồng tưởng tượng” (imagined community), chủ yếu nhờ ba yếu tố chính: một, sự phát triển của kỹ thuật xuất bản và báo chí; hai, sự thịnh phát của văn hóa bình dân; và ba, tiềm ẩn đằng sau cả hai yếu tố vừa kể, là vai trò của một ngôn ngữ chung, thường được gọi là ngôn ngữ chính thức, hoặc đơn giản hơn, quốc ngữ (national language). John Stuart Mill xem một ngôn ngữ chung là điều kiện để hình thành một công luận thống nhất và một công luận thống nhất, đến lượt nó, lại là điều kiện để một chính phủ đại biểu – nghĩa là một quốc gia theo nghĩa hiện đại - có thể hoạt động được. Ernst Moritz Arndt xem “chính ngôn ngữ đã tạo nên biên giới thực sự của một nước”.[16] Không phải ngẫu nhiên mà “tiếng Anh ở Anh, tiếng Pháp ở Pháp cũng như các ngôn ngữ ở các quốc gia Âu châu khác đều được chuẩn hóa, hợp thức hóa và trở thành ngôn ngữ thống trị trong xã hội cùng lúc với quá trình hình thành quốc gia ở những nơi ấy.”[17]

Xin lưu ý: ngôn ngữ chính thức của quốc gia là một chọn lựa. Quốc gia nào cũng là sự kết hợp của nhiều bộ tộc và nhiều sắc tộc với những văn hóa và ngôn ngữ khác nhau, do đó, quốc gia, tự bản chất, bao giờ cũng có tính chất đa chủng tộc, đa văn hóa và đa ngôn ngữ. Ví dụ, ai cũng biết, ở Việt Nam hiện nay, có trên 50 sắc tộc với trên 50 ngôn ngữ khác nhau, tuy nhiên, ở đó, chỉ có văn hóa và tiếng nói của người Kinh mới được xem là chính thức và chính thống.[18] Mà không phải chỉ ở Việt Nam. Ở đâu cũng thế. Ở Trung Quốc có đến 292 ngôn ngữ khác nhau nhưng chỉ có tiếng Hán được xem là ngôn ngữ quốc gia.[19] Ở Mỹ có đến khoảng 337 ngôn ngữ khác nhau nhưng chỉ có tiếng Anh được xem (một cách mặc nhiên)[20] là ngôn ngữ chính thức. Ở Úc cũng vậy, cũng chỉ có tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức trong khi hàng trăm thứ tiếng khác, trong đó có khoảng 70 thứ tiếng của người thổ dân (nguyên thủy, trước thế kỷ 20, là khoảng 400), những người sinh sống trên quốc gia – lục địa này cả mấy chục ngàn năm trước khi người da trắng đến lập nghiệp.

Không hoài nghi gì cả, quá trình từ một trong nhiều ngôn ngữ trở thành một ngôn ngữ chính thức duy nhất trong cả nước là một quá trình tranh giành quyền lực gay gắt và dai dẳng. Gay gắt: Ở một số nơi, cuộc tranh giành quyền lực ấy có thể dẫn đến nạn kỳ thị chủng tộc, hoặc có khi, họa diệt chủng: Ở Mỹ và ở Úc trước đây, có một thời gian khá dài, trẻ em thổ dân không được sử dụng tiếng mẹ đẻ của họ trong các trường nội trú. Từ năm 1940, sau khi sáp nhập ba nước Estonia, Latvia và Lithuania vào khối Liên bang Xô Viết, với bạo lực và các biện pháp hành chính, Nga biến tiếng Nga thành ngôn ngữ chính thức trong cả ba nước này. Nửa thế kỷ sau, khi hệ thống xã hội chủ nghĩa bị sụp đổ và khối Liên bang Xô Viết bị tan rã, cả ba nước trên trở thành độc lập: Một trong những việc họ làm đầu tiên là tuyên bố ngôn ngữ truyền thống của họ mới là ngôn ngữ chính thức chứ không phải tiếng Nga dù lúc ấy trong xã hội số người tiếng Nga rất nhiều.[21] Không những gay gắt, cuộc đấu tranh để thành một ngôn ngữ chính thức còn vô cùng dai dẳng, đầy khúc khuỷu, ở nhiều nơi, cơ hồ không hứa hẹn kết thúc sớm. Ở Sri Lanka, sau khi giành được độc lập từ Anh, hầu hết các chính khách đều đồng ý sử dụng một ngôn ngữ bản địa để thay thế tiếng Anh với tư cách một ngôn ngữ chính thức trong cả nước. Nhưng ngôn ngữ bản địa nào? Ở Sri Lanka, có hai ngôn ngữ bản địa chính: tiếng Tamil và tiếng Sinhala. Trong mấy chục năm, từ đầu thập niên 1940 đến nay, Quốc Hội Sri Lanka thông qua nhiều đạo luật khác nhau, với những nội dung khác hẳn nhau, lúc thì thiên về tiếng Sinhala, lúc thì thiên về tiếng Tamil, tuỳ theo tương quan lực lượng chính trị từng thời kỳ. Cuối cùng, chính phủ phải tìm cách thỏa hiệp: Tất cả các văn kiện hành chính quan trọng đều được viết bằng ba thứ tiếng: Tamil, Sinhala và tiếng Anh![22] Ở Ireland, mặc dù tiếng Anh là ngôn ngữ thống trị hầu như toàn bộ đời sống xã hội nhưng trên nguyên tắc, được Hiến pháp công nhận, ngôn ngữ chính thức của quốc gia gần năm triệu dân này vẫn là tiếng Irish, một thứ tiếng chỉ phổ cập trong khoảng 40% dân số, chủ yếu là những người sống ở thôn quê. Lý do: Đó là ngôn ngữ truyền thống, yếu tố tạo nên bản sắc của dân tộc. Ở Nam Phi, một nước có 50 triệu dân, thường xuyên bị chia rẽ bởi các vấn đề sắc tộc, đã tìm sự thỏa hiệp bằng cách công nhận đến 11 ngôn ngữ chính thức khác nhau: Afrikaans, Ndebele, Bắc Sotho, Sotho, Swazi, Tswana, Tsonga, Venda, Xhosa, Zulu và tiếng Anh. Trên nguyên tắc, tất cả 11 ngôn ngữ này đều bình đẳng với nhau, dù, đóng vai trò chủ đạo, trong lãnh vực thương mại và khoa học, vẫn là tiếng Anh; trong sinh hoạt gia đình, vẫn là các tiếng Zulu, Xhosa và Afrikaans. Ngay ở một nước phát triển giàu mạnh và có nền dân chủ cao như Canada, cuộc tranh chấp giữa tiếng Anh và tiếng Pháp với tư cách ngôn ngữ chính thức trong địa phương, đặc biệt ở Quebec, vẫn còn dằng dai, có lúc có nguy cơ dẫn đến những phân hóa trầm trọng về chính trị, đặc biệt về cơ chế: không ít người dân ở Quebec từng lên tiếng đòi quyền độc lập, hoặc ít nhất, quyền tự trị. Ở Bỉ cũng vậy. Cái quốc gia khá nhỏ với trên 10 triệu dân này bị phân hóa bởi ba ngÊn ngữ: tiếng Hà Lan (58% dân số, chủ yếu người Flemings), tiếng Pháp (31%, chủ yếu người Walloons) và tiếng Đức (1%). Về dân số, rõ ràng tiếng Hà Lan chiếm ưu thế. Nhưng về phương diện lịch sử, và do đó, về chính trị, ưu thế lại thuộc về tiếng Pháp: từ cuối thế kỷ 19, Bỉ được sáp nhập vào Pháp; dưới thời Napoleon, tiếng Hà Lan bị cấm, tiếng Pháp được xem là ngôn ngữ chính thức duy nhất trong hệ thống hành chính cũng như học đường; hậu quả là vào giữa thế kỷ 19, khi Bỉ tuyên bố độc lập, hầu hết giới trí thức tinh hoa của Bỉ đều nói tiếng Pháp: Họ trở thành một lực lượng chính trị có ảnh hưởng nhất trong cả nước. Năm 1921, chính phủ Bỉ tìm cách thỏa hiệp bằng cách chia nước họ thành ba vùng ngôn ngữ khác nhau: ngôn ngữ chính thức ở phía Bắc là tiếng Hà Lan; phía Nam là tiếng Pháp; ở thủ đô Brussels là song ngữ: tiếng Hà Lan và tiếng Pháp. Nhưng cộng đồng nói tiếng Đức càng ngày càng lớn mạnh, hơn nữa, nước Đức cũng càng ngày càng lớn mạnh và càng có ảnh hưởng lên tình hình chính trị nội bộ của Bỉ, do đó, chính phủ Bỉ lại quyết định cho tiếng Đức thành ngôn ngữ chính thức ở vùng Eupen và Saint-Vith, nơi có nhiều người nói tiếng Đức sinh sống. Sau đệ nhị thế chiến, vị trí của tiếng Đức bị yếu hẳn. Nhưng cuộc tương tranh giữa tiếng Hà Lan và tiếng Pháp vẫn còn tiếp tục, có lúc nước Bỉ có nguy cơ bị tách làm đôi: nước nói tiếng Pháp và nước nói tiếng Hà Lan.

Ở mỗi quốc gia, ngoài sự chọn lựa ngôn ngữ chính thức; ở một số ngôn ngữ chính thức, còn có vấn đề lựa chọn giữa các văn tự. Ở Ấn Độ, sau khi độc lập, ngoài tiếng Anh, người ta chọn tiếng Hindi làm ngôn ngữ chính thức. Nhưng tiếng Hindi lại có ít nhất 13 phương ngữ khác nhau. Quan trọng hơn, tiếng Hindi lại có đến hai văn tự: một, được viết dựa trên chữ Sanskrit (gọi là chữ Devanagiri) và một, dựa trên chữ Ả Rập (thường được gọi là Urdu, phổ biến chủ yếu trong cộng đồng người Hồi giáo). Cuộc tranh giành ngôi vị chính thức giữa hai kiểu chữ viết này không những gắn liền với các cuộc tranh giành quyền lực giữa các địa phương trên lãnh thổ Ấn Độ mà còn với cuộc tranh giành ảnh hưởng của những người Hồi giáo và những người theo các đạo khác – chủ yếu là Ấn Độ giáo, cuối cùng, dẫn đến những tranh chấp khốc liệt giữa Ấn Độ và Pakistan (nơi có nhiều người Hồi giáo và quyết định chọn hẳn thứ chữ Urdu). Tiếng Séc và tiếng Croat, thật ra, chỉ là hai biến thái của một ngôn ngữ duy nhất, thường được gọi chung là tiếng Serbo-Croatian. Sự khác biệt chủ yếu là ở văn tự: Tiếng Séc được viết theo mẫu tự Cyrillic – giống như tiếng Nga – trong khi tiếng Croat thì được viết theo mẫu tự Latin – như tiếng Anh hay tiếng Việt hiện nay. Đằng sau sự lựa chọn ấy là lịch sử và tôn giáo: quốc gia sử dụng tiếng Séc theo Chính Thống giáo trong khi quốc gia sử dụng tiếng Croat lại theo Thiên Chúa giáo. Và đằng sau cả vấn đều lịch sử và tôn giáo ấy lại là vấn đề chính trị: mỗi quốc gia đều muốn khẳng định bản sắc của mình bằng một ngôn ngữ riêng.

Ở Việt Nam cũng vậy. Ngày xưa, cha ông chúng ta đối diện với hai lựa chọn chính về văn tự: chữ Hán và chữ Nôm. Tất cả các triều đại đều quyết định chọn chữ Hán. Lý do cũng vì chính trị: Chữ Hán gắn liền với Nho giáo trong khi Nho giáo lại gắn liền với các học thuyết chính trị có lợi cho nhà cầm quyền, trong đó, có hai điểm quan trọng nhất là: tư tưởng thiên mệnh và đạo trung hiếu. Với chữ Hán, các triều đình Việt Nam có một yếu tố thiết yếu để được “thiên triều” Trung Quốc xem là “đồng văn”, do đó, nhìn nhận, và một vũ khí đắc lực để giữ khoảng cách với dân chúng – khoảng cách giữa học thức và mù chữ; và với khoảng cách ấy, giới cầm quyền tiếp tục được linh thiêng hóa, một điều kiện quan trọng để làm nảy nở và duy trì huyền thoại và, từ đó, quyền lực. Từ đầu thế kỷ 20, chính quyền thực dân Pháp quyết định chọn chữ quốc ngữ thay vì chữ Nôm hay chữ Hán cũng lại vì chính trị nữa: Với chữ quốc ngữ, người ta, một mặt, tách đất nước Việt Nam ra khỏi quỹ đạo của Trung Quốc, tách người Việt Nam ra khỏi sự ràng buộc của truyền thống vốn kéo dài cả hàng ngàn năm và được kết tinh chủ yếu qua chữ Hán, và cô lập hóa giới trí thức Nho học vốn vừa quật cường vừa bảo thủ, vừa sùng bái Trung Quốc vừa khinh ghét người Tây phương; mặt khác, kéo Việt Nam lại gần hơn với Pháp. Gần về văn tự: cả chữ quốc ngữ lẫn tiếng Pháp đều sử dụng mẫu tự La Tinh. Gần cả về phương diện lịch sử: thứ chữ quốc ngữ ấy là do người Tây phương, trong đó có rất nhiều người Pháp, tạo nên. Hầu hết các nhà cách mạng và các trí thức tân học, kẻ sớm người muộn, đều đồng ý với việc chọn chữ quốc ngữ làm văn tự chính thức của tiếng Việt. Sự lựa chọn ấy cũng lại là một lựa chọn mang tính chính trị: Nó gắn liền với chủ nghĩa quốc gia (nationalism). Xin lưu ý: mặc dù Việt Nam có lịch sử cả mấy ngàn năm, nhưng khái niệm quốc gia, và đặc biệt, chủ nghĩa quốc gia chỉ ra đời từ đầu thế kỷ 20 khi người Việt thoát khỏi ý thức trung quân, ở đó, khái niệm nước bị đồng nhất với khái niệm vua, và khi người Việt chớm có ý thức công dân, tự xem mình như một chủ thể của đất nước, ở đó, họ có trách nhiệm trực tiếp đối với vận mệnh của đất nước. Yếu tính của đất nước, thoạt đầu, nằm ở “hồn nước” vốn gắn liền với huyền thoại (dòng giống Lạc Hồng, con Rồng cháu Tiên); sau, ở ngôn ngữ; và sau nữa, ở chữ quốc ngữ. Trong “Bài hát khuyên học chữ quốc ngữ”, nhóm Đông Kinh Nghĩa Thục kêu gọi: “Chữ quốc ngữ là hồn trong nước / Phải đem ra tính trước dân ta”. Năm 1907, trong lời tựa bộ Tam quốc chí do Phan Kế Bính dịch, Nguyễn Văn Vĩnh tuyên bố: “Nước Nam ta mai sau này, hay dở cũng ở chữ Quốc ngữ”.[23] Trong bài “Văn quốc ngữ”, Phạm Quỳnh đồng ý và nhấn mạnh: “Tương lai nước nhà chính ở đó.”[24] Sau, trong bài diễn thuyết đọc tại lễ kỷ niệm Nguyễn Du năm 1924, ông đồng nhất hai khái niệm nước và tiếng trong câu nói gây nhiều tranh cãi: “Tiếng Việt còn, nước ta còn.”[25]

Sau năm 1945, chính quyền Việt Minh cương quyết loại trừ tiếng Pháp, chỉ sử dụng tiếng Việt, và trong tiếng Việt, chỉ sử dụng chữ quốc ngữ trong hệ thống hành chính và học đường cũng là vì lý do chính trị: Thứ nhất, thực hiện chiêu bài dân tộc hóa họ đã đặt ra ngay từ thời Văn hóa Cứu quốc; thứ hai, lực lượng của họ chủ yếu đến từ công nhân và đặc biệt nông dân, những người ít học và có vốn văn hóa thấp. Để tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của các tầng lớp ấy, ngay sau Cách mạng tháng Tám, họ tung ra ngay hai chiến dịch: Một, xóa nạn mù chữ một cách gấp rút;[26] hai, chủ trương nói và viết một cách nôm na, đơn giản, thật dễ hiểu đối với mọi người. Cả hai đều nhắm đến một mục tiêu duy nhất: làm sao cho đông đảo quần chúng có thể đọc được cái tờ truyền đơn tuyên truyền của đảng Cộng sản.

Cuối cùng, ở phạm vi liên cá nhân, ngôn ngữ cũng có tính chính trị rõ rệt. Lý do: mọi giao tiếp liên cá nhân đều gắn liền với văn hóa. Mà văn hóa, tự bản chất, là một thứ quyền lực. Thứ nhất, văn hóa nào cũng được xây dựng trên truyền thống; truyền thống nào cũng được xây dựng trên quán tính; quán tính nào cũng được xây dựng trên sự sùng bái cái cũ và sự kế thừa: Tính sùng bái là một quyền lực. Thứ hai, về mục đích, văn hóa nào cũng nhằm, trước hết, xây dựng và củng cố sự hài hòa và trật tự trong xã hội. Cả sự hài hòa lẫn trật tự đều mang tính đẳng cấp. Do đó, ngôn ngữ cũng có tính đẳng cấp. Ngày xưa, vua chúa và giới quý tộc có những kiểu nói riêng, dân chúng có kiểu nói riêng. Trong quan hệ giao tiếp giữa vua chúa - quý tộc và dân chúng, ngôn ngữ, một mặt, được nghi thức hóa; mặt khác, phản ánh quyền lực – hoặc không quyền lực - của từng thành phần. Ngày xưa, cha ông chúng ta hiểu rất rõ điều đó. Ca dao và tục ngữ Việt Nam cung cấp cả một kho tàng triết lý về việc nói năng. Chẳng hạn, xem ngôn ngữ như một thứ quyền lực: Miệng nhà quan có gan có thép, có ảnh hưởng trực tiếp đến số phận con người: Lời nói đọi máu. Do đó, càng ít nói bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu: Lời năng nói năng lỗi. Trước khi nói nên suy nghĩ chín chắn: Có miệng thì cắp, có nắp thì đậy; kẻ thất thế càng nên nói ít: Khó nhịn miệng, bồ côi nhịn lời. Nếu phải nói, nên nói, đừng viết: Lời nói gió bay, bút sa gà chết. Nếu viết, nên chọn hình thức phù du nhất: Khôn văn tế dại văn bia. Không nên nói thật: Nói thật mất lòng. Và chỉ nên nói khéo: Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau, v.v..

Nói một cách tóm tắt, ở cả ba phạm vi: quốc tế, quốc gia và liên cá nhân, bao giờ ngôn ngữ cũng gắn liền với ý niệm về quyền lực, do đó, đều có tính chính trị. Giới làm chính trị hiểu rõ điều đó và không ngừng tận dụng ngôn ngữ như một thứ vũ khí để giành giật, và sau đó, bảo vệ quyền lực.

Trong lịch sử, không có giới chính trị nào hiểu điều đó một cách sâu sắc và tận dụng điều đó một cách triệt để cho bằng giới lãnh đạo cộng sản.

Ở đây, có một điểm quan trọng cần được nhấn mạnh: nền tảng ý thức hệ của chủ nghĩa cộng sản là chủ nghĩa Mác, nhưng, như Vladimir M. Alpotov đã phân tích,[27] không có cái gọi là chủ nghĩa Mác trong lãnh vực ngôn ngữ học. Trong hai người khai sáng ra chủ nghĩa Mác, Karl Marx hầu như hoàn toàn không đề cập đến ngôn ngữ học; Friedrich Engels thỉnh thoảng có nhắc đến ngôn ngữ trong cuốn Nguồn gốc gia đình, tư hữu và nhà nước (1884) và cuốn Chống Duhring (1878), cũng như dành hẳn một cuốn sách về đề tài lịch sử tiếng Đức cổ đại (The Frankish Dialect), tuy nhiên, ở đây có ba điểm cần chú ý: một, ở mọi nơi, Engels chỉ tập trung vào ngữ học so sánh và phương ngữ học hơn là lý thuyết; hai, ở cả hai lãnh vực vừa kể, ông không có sáng tạo gì riêng, ngoài những phát hiện đã được công bố của nhiều nhà ngôn ngữ học trước đó; và ba, quan trọng nhất, tất cả những luận điểm ấy đều không có gì là Mác xít cả. Tất cả các công trình nghiên cứu ngôn-ngữ-như-là-ngôn-ngữ (tức không phải chỉ ở khía cạnh sử dụng ngôn ngữ trong xã hội) của các học giả dưới chế độ cộng sản, từ Nga đến Đông Âu và dĩ nhiên, kể cả Việt Nam, đều là phi-Mác hoặc là giả Mác. Trong các cuốn sách ấy, người ta thường trích dẫn một số lời phát biểu chung chung và vu vơ về ngôn ngữ của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác hoặc các nhà lãnh đạo cộng sản hoặc sử dụng thật nhiều thuật ngữ quen thuộc của chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa cộng sản, nhưng trên thực tế, khi phân tích bản thân ngôn ngữ, như một hệ thống, người ta lại không xuất phát từ bất cứ một luận điểm nào vốn được xem là nòng cốt của chủ nghĩa Mác: chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngay cả cái việc căn bản nhất là xác định có phải ngôn ngữ thuộc kiến trúc thượng tầng của xã hội hay không, cho đến nay, người ta vẫn chưa làm được. Bởi, để chứng minh ngôn ngữ thuộc kiến trúc thượng tầng, người ta phải chứng minh tiếp: những thay đổi trong cơ sở hạ tầng của xã hội tất yếu dẫn đến các sự thay đổi trong ngôn ngữ. Nhưng nhìn vào lịch sử, người ta thấy khác hẳn: ngoài lãnh vực từ vựng và việc sử dụng các biện pháp tu từ, cấu trúc ngôn ngữ, qua nhiều thể chế và nhiều thời đại khác nhau, vẫn cố định, hoặc nếu thay đổi, cũng thay đổi rất chậm; hơn nữa, tất cả những sự thay đổi ấy đều xuất phát từ những nguyên nhân khác, chứ không phải vì kinh tế. Ngay chính Stalin, trong cuốn Chủ nghĩa Mác và vấn đề ngôn ngữ học (1950) cũng phải thừa nhận điều đó khi ông thừa nhận tiếng Nga, trong vòng cả một trăm năm, kể từ Pushkin trở về sau, trải qua ba chế độ: chủ nghĩa phong kiến, chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, chỉ có sự khác biệt rất ít về cấu trúc. Đi xa hơn, Stalin chủ trương tách ngôn ngữ ra khỏi kiến trúc thượng tầng và dĩ nhiên, cả cơ sở hạ tầng: Ông xem ngôn ngữ như các loại máy móc, sản phẩm của con người, nhằm phục vụ cho cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội.[28] Alpatov trích dẫn ý kiến của nhiều người khác nhau, từ Polivanov đến Noam Chomsky; tất cả đều có cùng một kết luận: “Cho đến nay, không có bất cứ một tác phẩm M 񣠸?ít nào về triết học ngôn ngữ” và “một nền ngôn ngữ Mác xít chưa từng hiện hữu cả ở phương Tây lẫn ở Nga.”[29] Sự thất bại về phương diện lý thuyết ấy, thật ra, là một điều may mắn cho giới nghiên cứu: sau khi trích dẫn một số câu nói chung chung của giới lãnh đạo cho đúng bài bản, họ có thể đi sâu vào việc phân tích ngôn ngữ theo nhiều khuynh hướng khác nhau, kể cả các khuynh hướng thông dụng ở Tây phương, từ chủ nghĩa hình thức đến cấu trúc luận và chức năng luận. Ở Việt Nam, chúng ta chỉ cần đọc sách của các nhà ngôn ngữ học được xem là xuất sắc nhất, từ Nguyễn Tài Cẩn đến Cao Xuân Hạo, thì thấy ngay điều đó.

Nhưng bất chấp những sự thất bại về phương diện lý thuyết, giới lãnh đạo cộng sản vẫn là những “bậc thầy” trong việc sử dụng ngôn ngữ như một thứ vũ khí tuyên truyền chính trị. Về đề tài này, Xing Lu có nguyên một cuốn sách với nhiều tài liệu phong phú và cách phân tích sâu sắc về cách sử dụng ngôn ngữ dưới thời Mao Trạch Đông[30] và Andrei Sinyavsky có một chương viết rất thú vị về ngôn ngữ Xô Viết trong cuốn Soviet Civilization, A Cultural History. [31] Tuy nhiên, ở đây, tôi chỉ giới hạn trong trường hợp của Việt Nam.

Từ lúc lên nắm chính quyền vào năm 1945, đảng Cộng sản đưa ra nhiều chính sách ngôn ngữ liên quan đến ngôn ngữ các dân tộc thiểu số, tiếng Việt và tiếng nước ngoài.[32] Ngoài các chính sách chung, họ cũng tung ra nhiều cuộc vận động lớn, bao gồm ba cuộc vận động chính: một, vận động cải tiến chữ quốc ngữ (vào tháng 9, 1960); hai, vận động giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt (tháng 2, 1966); và ba, vận động chuẩn hóa tiếng Việt (tháng 7, 1983). Về hai phương diện này, thật ra, không có gì đáng nói. Về chính sách, những người làm luật Việt Nam thừa hiểu biết và khôn ngoan để sử dụng những lời lẽ thật hay và đẹp, phù hợp với các xu hướng tiến bộ trên thế giới. Thì cũng, một mặt, thừa nhận một ngôn ngữ chính thức; mặt khác, thừa nhận và tôn trọng tính chất đa ngôn ngữ trong xã hội. Thì cũng bảo vệ ngôn ngữ các dân tộc thiểu sổ và khuyến khích dân chúng, hoặc ít nhất là học sinh và sinh viên, học thêm một thứ tiếng nước ngoài nào đó. Vấn đề người ta có thực hiện những điều đó hay không thì lại là một chuyện khác. Về các cuộc vận động phát triển tiếng Việt thì hầu như chỉ có tính chất phong trào. Đâu lại hoàn đấy. Cho đến nay, sau bao nhiêu cuộc vận động và sau hơn nửa thế kỷ cầm quyền, có những vấn đề đơn giản nhất, như nguyên tắc viết chính tả và cách thức phiên âm tên riêng từ nước ngoài, người ta vẫn chưa giải quyết được. Đọc sách báo, ở đâu người ta cũng thấy một tình trạng: cực kỳ lộn xộn. Đã có rất nhiều người lên tiếng than phiền về điều đó.

Tuy nhiên, những điều ấy đều nằm ngoài phạm vi bài viết này. Ở đây, chúng ta chỉ tập trung vào những chủ trương chính trị hóa ngôn ngữ.

Chủ trương đầu tiên là dùng ngôn ngữ để khẳng định sự tồn tại và bản sắc của chế độ cộng sản như một cái gì mới mẻ và tiến bộ nhất trong lịch sử, khác hẳn với các chế độ và các thời đại trước. Cách thức dễ thấy nhất là đặt ra những tên gọi mới cho các đơn vị hành chính, các tổ chức và chức vụ trong hệ thống đảng cũng như nhà nước. Về tên miền, họ thay thế chữ “kỳ” quen thuộc thời Minh Mạng đến thời Pháp thuộc bằng chữ “bộ”: Bắc bộ, Trung bộ và Nam bộ.[33] Về tổ chức, người đứng đầu các cơ quan công quyền là “chủ tịch”, từ Chủ tịch nước (thay vì Tổng thống) đến chủ tịch các ủy ban nhân dân, từ cấp tỉnh (thay cho “tổng đốc”) xuống cấp huyện (thay cho “tri huyện”) và cấp xã (thay cho “chánh tổng”). Người đứng đầu mỗi bộ là Bộ trưởng thay vì là Thượng thư.[34] Ngay ở cấp thấp nhất, chữ “lính”, vốn rất quen thuộc, người ta cũng ngại: nó gợi nhớ đến những lính thực dân và lính đánh thuê ngày trước. Bèn thay bằng những chữ như “vệ quốc quân”, “giải phóng quân”, “chiến sĩ cách mạng”, và cuối cùng, thông dụng nhất, “bộ đội”. Cũng về phương diện tổ chức, để làm nổi bật tính chất dân chủ, một thứ nhà nước của dân, do dân và vì dân, mà họ muốn tuyên truyền, người ta ghép từ “nhân dân” vào hầu hết các cơ quan nhà nước: Ủy ban nhân dân, công an nhân dân, quân đội nhân dân, tòa án nhân dân, đại biểu nhân dân, đoàn xiếc nhân dân (chỉ trừ một ngoại lệ: Ngân hàng nhà nước!). Không “nhân dân” thì “tập thể”: nhà ở tập thể, nông dân tập thể, cửa hàng ăn uống tập thể. Xưng hô với nhau, người ta đều gọi nhau là “đồng chí”. Cả với người yêu cũng vẫn là “đồng chí” (Thơ Vũ Cao, trong bài “Núi đôi”: “Nhớ nhau anh gọi em: đồng chí”; thơ Nguyễn Đình Thi, trong bài “Không nói”: “Chiều mờ gió hút / Bắt tay / Đồng chí / Em / Bóng nhỏ / Đường lầy.”)[35]

Ở khía cạnh này, có bốn đặc điểm đáng chú ý. Thứ nhất, chính quyền cộng sản muốn tách rời khỏi các danh xưng gắn liền với chế độ phong kiến trước đó. Thứ hai, họ muốn “sang hóa” thể chế của họ nên họ tận dụng thật nhiều từ Hán Việt, phần lớn là vay mượn thẳng từ kho từ vựng chính trị và hành chính từ Trung Quốc: Giống như Trung Quốc, họ cũng có Chủ tịch, có Tổng bí thư, bí thư, có các chi bộ, chi ủy, chi ủy viên, chính ủy. Ngôn ngữ chính trị của cộng sản đầy ắp từ Hán Việt. Đó là một nghịch lý: về phương diện lý thuyết, tất cả các nhà lãnh đạo cộng sản, từ Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng đến những người khác, đều tuyên bố nên giảm thiểu đến tối đa các từ Hán Việt và nên tận dụng lớp từ thuần Việt nôm na và bình dị của quần chúng. Nghịch lý này tiết lộ đặc điểm thứ ba trong cách định danh của ngôn ngữ cộng sản: tính chất kỳ thị. Từ Hán Việt được sử dụng cho những gì thuộc về họ, và từ thuần Việt được “ưu tiên” dành riêng cho phe địch. Từ đó, chúng ta thấy có các sự đối lập: thuộc phe ta là “bộ đội”, thuộc phe địch là “lính”; thuộc phe ta là “phi công”, thuộc phe địch là “giặc lái”; thuộc phe ta là “văn nghệ sĩ”, thuộc phe địch là “bồi bút”; thuộc phe ta là “nhân danh”, thuộc phe địch “núp dưới tên”; đứng đầu, thuộc phe ta là “lãnh đạo”; thuộc phe địch là “đầu sỏ” (“Mỹ là tên đế quốc đầu sỏ”); đi đầu trong cuộc đấu tranh, thuộc phe ta là “đội quân tiên phong”, thuộc phe địch là “lũ chó săn”; thuộc phe ta thì có “Hồ Chủ tịch”, thuộc phe địch thì chỉ có Diệm hoặc Kỳ hoặc, xa hơn, ở Mỹ, có “Tổng Ai” (Eisenhower), “Tổng Ken” (Kenedy), “Tổng Nít” (Nixon) hay “Tổng Giôn” (Johnson).[36] Trong cách xưng hô, đứng trước tên riêng, thuộc phe ta thì bao giờ cũng phải có chức danh phía trước: hoặc “Bác Tôn” hoặc “Đồng chí Tổng bí thư Lê Duẩn”; với những người khác thì ít nhất phải là “đồng chí”; thiếu là bất kính; thuộc phe địch thì hoặc trống không hoặc là “thằng” (“thằng Diệm”), “con” (“con Trần Lệ Xuân”) hoặc “mụ” (“mụ Thụy An” – một người trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm). Chữ “đồng chí” chỉ được dùng giữa người của họ với nhau mà thôi. Dân chúng, nói chuyện với đảng viên hay các quan chức nhà nước thì phải gọi là “cán bộ”. Liên quan đến đặc điểm này, có một chuyện cười khá phổ biến ở Việt Nam: Có một ông già đang đi đường thì bị công an bắt. Từ trong buồng giam, nhìn ra ngoài, ông nhác thấy bóng đứa con trai của ông đang làm công an ở nhà tù. Ông mừng rỡ, gọi ơi ới: “Con! Con!” Một tên quản giáo đi ngang qua, nghe thế, quát: “Ông kia, ông nói ai là ‘con’? Phải gọi là ‘cán bộ’, nghe chưa?” Ông già sợ hãi, im bặt. Lúc ấy con trai ông cũng vừa thấy, đến gần. Ông già nghiêm chỉnh gào to: “Báo cáo cán bộ, xin nhờ cán bộ về nói với mẹ cán bộ là chồng của mẹ cán bộ mới bị bắt. Xin đề nghị đi thăm nuôi!” Cuối cùng, thứ tư, cộng sản độc quyền chiếm dụng hẳn một số từ nhất định. Ví dụ, chữ “Đảng” viết hoa, đứng một mình, phải được hiểu là đảng Cộng sản; chữ “Bác” cũng vậy, khi viết hoa và đứng một mình, đều chỉ riêng một người: Hồ Chí M nh. Không thể có ai khác. Ngay cả chữ “Người” viết hoa, cũng ưu tiên dành cho Hồ Chí Minh. Thời Nhân Văn Giai Phẩm, Trần Dần bị phê phán là “phản động” vì nhiều lý do; một trong những lý do ấy cũng là ở chữ “Người”. Phan Khôi, trong bài “Phê bình lãnh đạo văn nghệ”, kể: “Tôi nhớ một vị bắt lỗi trong bài thơ Trần Dần có chữ ‘người’ viết hoa. Lấy lẽ rằng chữ ‘người’ viết hoa lâu nay chỉ để xưng Hồ Chủ tịch, thế mà Trần Dần lại viết hoa chữ ‘người’ không phải để xưng Hồ Chủ tịch. Tôi ngồi nghe mà tưởng như mình ở trong chiêm bao: chiêm bao thấy mình đứng ở một sân rồng nọ, ông Lê Mỗ tố cáo ông Nguyễn Mỗ trước ngai vàng, rằng trong phép viết, chỉ có chữ nào thuộc về hoàng thượng mới phải đài, thế mà tên Nguyễn Mỗ viết thư cho bạn, dám đài những chữ không phải thuộc về hoàng thượng.”[37] Nghe như chuyện hài hước. Nhưng không nên quên: vì những chuyện đại loại như thế, Trần Dần đã bị bắt bỏ tù hơn ba tháng, bị cải tạo lao động hơn một năm và bị cấm xuất bản trên 30 năm!

Liên quan đến việc đặt tên, cần chú ý đến sự thay đổi trong chính sách của đảng Cộng sản trong mấy thập niên đầu tiên: thoạt đầu, họ theo hướng quốc tế hóa; sau, dân tộc hóa. Xu hướng quốc tế hóa ấy thể hiện ở ngay trong tên đảng: “Đảng Cộng sản Đông Dương” (thay vì đảng Cộng sản Việt Nam) và trong tên cuộc vận động chính trị đầu tiên của đảng ấy: “Xô Viết Nghệ Tĩnh” (1930-1). Xô Viết Nghệ Tĩnh bị thất bại nặng nề, một phần, vì sự đàn áp khốc liệt và hiệu quả của Pháp; phần khác, vì sự ủng hộ thưa thớt và yếu ớt của quần chúng. Lý do thứ hai này lại xuất phát từ một lý do khác: ngay tên gọi và các khẩu hiệu của phong trào đã hoàn toàn xa lạ với quần chúng, vốn bao gồm, trước hết, thành phần nông dân ít học, hoàn toàn không biết gì về Liên Xô và chủ nghĩa xã hội. Rút kinh nghiệm từ những thất bại ấy, họ chuyển hẳn sang hướng dân tộc hóa với những tên gọi như “Việt Minh”, “Văn hóa Cứu quốc” và cuối cùng, từ năm 1951, “Đảng Lao Động Việt Nam”. Trong cái gọi là xu hướng dân tộc hóa trong lãnh vực ngôn ngữ này, những người lãnh đạo cộng sản vừa có ý thức vừa biết cách tận dụng sức mạnh của truyền thống trong việc tuyên truyền. Trong cái gọi là truyền thống ấy, có một yếu tố quan trọng: ý thức đạo đức. Trong khi nền tảng xã hội ở các nước Tây phương phần lớn được xây dựng trên các tôn giáo có tính mặc khải (revealed religions), ở Việt Nam, cũng như Trung Quốc, trên ý niệm về đạo đức.[38] Ý niệm đạo đức ở Việt Nam lại được xây dựng trên hai cơ sở chính: Nho giáo và gia đình. Hồ Chí Minh, ngay từ lúc mới lên nắm chính quyền, đã tận dụng cả hai. Ông tự xây dựng hình ảnh mình không như một lãnh tụ hùng hồn và hùng dũng như Lenin, Stalin và Fidel Castro, cũng không bệ vệ và oai vệ như Mao Trạch Đông, mà chỉ như một nhà nho, hơn nữa, một người quân tử theo quan điểm Nho giáo.[39] Ông thường thù tạc với các chính khách khác bằng chữ Hán. Rồi làm thơ bằng chữ Hán. Ông sử dụng lại các khái niệm quen thuộc trong Nho giáo: “Trung với đảng, hiếu với dân”, “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Và ông đóng vai một người “cha già” hoặc “Bác”[40] trong khi những người khác trong ban lãnh đạo thì đóng vai “anh”, từ anh Tô (Phạm Văn Đồng) đến anh Văn (Võ Nguyên Giáp), anh Thận (Trường Chinh), rồi, với những người từng hoạt động trong Nam, anh Ba (Lê Duẩn), anh Sáu (Lê Đức Thọ), anh Mười (Nguyễn Văn Linh), v.v.

Cũng liên quan đến việc khẳng định sự tồn tại và bản sắc qua ngôn ngữ, nhà cầm quyền cộng sản còn có thói quen sử dụng thật nhiều các định ngữ[41] hoặc bổ ngữ.[42] Đi liền với lãnh tụ thì bao giờ cũng phải có chữ “vĩ đại”; với lãnh đạo thì “thiên tài” hay “sáng suốt”; với Đảng thì “quang vinh”; với chiến thắng thì “vẻ vang” hay “vang dội”; với lịch sử thì “rực rỡ”; với tranh đấu thì “oanh liệt”; với dân tộc thì “bất khuất”; với chính sách thì “đúng đắn”; với chỉ đạo thì “sâu sát”; với kẻ thù thì “tàn bạo”; với tộc ác thì “dã man”; với âm mưu của kẻ thù thì phải có “tinh vi” hay “hiểm độc”; với chính quyền địch thì phải có chữ “tay sai” hoặc “bù nhìn”; văn hóa, ở miền Bắc, phải đi liền với chữ “xã hội chủ nghĩa”, ở miền Nam, chữ “suy đồi”. Đứng trước tên nước Pháp phải có chữ “thực dân”; trước Mỹ, “đế quốc”; trước Trung Quốc (cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980), “bá quyền”; hoặc gọn hơn, “giặc”.

Có thể nói, bằng các cách kết hợp từ như vậy, cộng sản đã tạo thành vô số các sáo ngữ. Thật ra, ở đâu và thời nào cũng có sáo ngữ. Chỉ có điều là, sáo ngữ, ở những nơi và những thời khác, phần lớn do lười biếng; dưới chế độ cộng sản, do bắt buộc. Sự bắt buộc ấy diễn ra dưới nhiều hình thức. Một cách quy mô, sớm nhất, ngay từ cuối thập niên 1940, khi ảnh hưởng của chủ nghĩa Mao tràn ngập vào Việt Nam, đảng Cộng sản Việt Nam đã mở ra nhiều chiến dịch chỉnh phong và chỉnh huấn, ở đó, mọi cán bộ và đảng viên đều tập nói một thứ ngôn ngữ giống hệt như nhau. Nói về chính sách: giống nhau, đã đành. Ngay cả tự phê và tự thú tội trước tập thể cũng giống nhau. Không những giống ý mà còn giống cả lời. Sau đó, ở miền Bắc sau năm 1954 cũng như ở cả nước sau năm 1975, không những cán bộ đảng viên mà cả quần chúng cũng thường xuyên “được” học tập chính trị, ở đó, mọi người cũng phải nói một ngôn ngữ giống nhau, ngôn ngữ chính thức của cả chế độ. Nhớ, cuối năm 1975, tôi vào học Khoa Văn trường Đại Học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh. Tháng đầu tiên, tất cả các sinh viên đều phải học chính trị. Thì cũng về lịch sử đảng. Về kháng chiến chống Pháp, đặc biệt, kháng chiến “chống Mỹ”. Về tính chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội và về những tàn dư của chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam. Ngoài các giảng viên trong trường, người ta còn mời cả những tên tuổi lớn trong giới văn nghệ, từ Xuân Diệu đến Chế Lan Viên và Nguyễn Đình Thi đến giảng bài. Điều đáng nói là, sau mỗi bài giảng chung trong hội trường lớn, tất cả các sinh viên phải về lớp của mình để thảo luận. Trước khi thảo luận, giảng viên đặt ra một số câu hỏi và trả lời các câu hỏi ấy. Sau đó, họ lại nêu lên từng câu hỏi một, rồi từng sinh viên thay phiên nhau lặp lại câu trả lời đã được giảng. Hết người này đến người khác. Lần đầu, sau khi nghe cả gần 10 người nói đi nói lại như vẹt như vậy, đến lượt tôi, tôi cố tìm cách nói khác đi một chút. Một chút thôi. Vậy mà giảng viên cũng như các đảng viên trong lớp xúm vào phê phán tôi tơi tả. Một số người còn đặt ra vấn đề “lập trường”. Giọng họ rất gay gắt. Rút kinh nghiệm, sau đó, tôi cũng chỉ lặp lại từng ý, thậm chí, từng câu, từng chữ của bài giảng. Gọi là “thảo luận” nhưng thực chất là nhồi sọ.

Biện pháp nhồi sọ ấy được thực hiện rộng khắp trong mọi lãnh vực, từ gia đình đến nhà trường và xã hội; và triền miên, từ năm này qua năm khác. Cuối cùng, ngôn ngữ, thay vì phản ánh hiện thực, lại tạo ra những ảo tưởng về một thiện thực mới. Với nhiều người, ảo tưởng ấy thay thế cho hiện thực. Sống dưới chế độ cộng sản là sống trong ảo tưởng và với những sáo ngữ như thế. Sáo ngữ trở thành thông hành cho mọi người. Trong cuốn Soviet Civilization: A Cultural History, Andrei Sinyavsky kể: Đầu thập niên 1950, ông được mời tham gia ban giám khảo chấm một luận án tiến sĩ về Vladimir Mayakovsky của một nghiên cứu sinh Việt Nam. Hội đồng chấm thi không hài lòng với cái luận án ấy ở hai điểm chính: một, thường xuyên trích dẫn Hegel; và hai, đề cao chủ nghĩa vị lai (Futurism) Nga. Cả hai điểm ấy đều bị dị ứng dưới chế độ Xô Viết lúc bấy giờ. Họ muốn đánh hỏng. Nhưng Sinyavsky lại bênh vực. Ông không cãi lý về học thuật. Ông chỉ sử dụng ngôn ngữ chính trị để thuyết phục: “Các đồng chí thân mến! Đây là luận án đầu tiên được viết bởi một người Việt Nam và không phải về ai khác hơn là một nhà thơ hàng đầu của Cách mạng Nga, về Vladimir Mayakovsky! Chẳng phải là một sai lầm chính trị nếu Hội đồng không thông qua luận án này sao?” Sinyavsky kết luận: “Những lời lẽ ngắn gọn ấy như một phép màu (magic)”: Luận án được chấm đậu![43] Hiện tượng như vậy chắc chắn cũng thường xuyên xảy ra ở Việt Nam. Giới cầm bút hiểu rõ điều đó: Viết về bất cứ điều gì, chương đầu tiên bao giờ cũng trích dẫn dài dòng các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa xã hội và ý kiến của giới lãnh đạo trong nước. Nhiều khi những trích dẫn ấy chả dính dáng gì đến đề tài họ nghiên cứu. Nhưng người ta vẫn làm. Như một thứ bùa hộ mệnh.

Chủ trương thứ hai, song song với việc dùng ngôn ngữ để khẳng định sự tồn tại của mình, nhà cầm quyền cộng sản cũng sử dụng ngôn ngữ như những nhãn hiệu để phạm trù hóa kẻ thù. Ngày xưa, thời kháng chiến chống Pháp, đó là những chữ “thực dân”, “Việt gian”, “địa chủ”, “cường hào” và “tư sản”; sau, thời chiến tranh Nam Bắc, đó là những chữ “đế quốc”, “chủ nghĩa thực dân mới”, “Mỹ ngụy”, “bù nhìn”, “tay sai”, “ác ôn”, “phản quốc” và “phản động”; sau năm 1975, “chủ nghĩa bá quyền”, “chủ nghĩa bành trướng”, “tư sản mại bản”, “tàn dư của chủ nghĩa thực dân” và “phản động”; gần đây, thêm hai khái niệm mới: “diễn tiến hòa bình” và “âm mưu của các thế lực thù địch quốc tế”. Đi đôi với các từ ngữ ấy ấy là vô số các ẩn dụ nhằm phi nhân hóa kẻ thù: “sài lang”, “lang sói”, “ác thú”, “quỷ dữ”, v.v. Những nhãn hiệu ấy có ba chức năng chính: một, để chụp mũ bất cứ người nào họ đi ngược lại chủ trương của họ; hai, để phi nhân hóa kẻ thù: kẻ thù tồn tại không phải như những con người mà là như những khái niệm, do đó, việc tiêu diệt kẻ thù không còn nằm trong phạm trù đạo đức thông thường nữa; và ba, để dựng lên những con ngáo ộp hầu mặt mặt, dù dọa dân chúng; mặt khác, biện minh cho những chính sách cứng rắn, thậm chí, có tính chất khủng bố của họ. Chức năng thứ ba là thuộc tính của mọi chế độ độc tài: Họ luôn luôn cần kẻ thù, cần văn hóa chiến tranh. Nếu không có kẻ thù thì họ thêu dệt ra kẻ thù. Bóng ma của kẻ thù là một cách để vừa tập trung quyền lực vừa đánh lạc hướng dư luận. Đối diện mới cái bóng ma đầy đe dọa ấy, dân chúng nói chung dễ dàng gác bỏ mọi sự hoài nghi hay ý hướng phản kháng.

Chủ trương thứ ba, đặc biệt suốt cả hai cuộc chiến tranh, 1946-54 và 1954-75, là quân sự hóa các hoạt động ngôn ngữ trong đời thường. Văn học nghệ thuật biến thành hoặc “chiến trường” hoặc “mặt trận” hoặc “trận tuyến”; tác phẩm là “vũ khí”; viết lách là “tiến công”; “nhà thơ cũng phải biết xung phong”; “viết bài thơ trên báng súng”; “vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy / bên những dũng sĩ diệt xe tăng ngoài đồng và hạ trực thăng rơi”; giới cầm bút biến thành “đội ngũ”, hình thành nên cái gọi là “đội quân văn nghệ” hay “lực lượng sáng tác”, ở đó mọi người đều là những “chiến sĩ cầm bút” và đều tuân theo một “cương lĩnh chiến đấu” và cùng nhau “hiệp đồng chiến đấu”. Thơ trào phúng được xem là một “binh chủng đặc biệt” trong khi các bài ký sự hôi hổi sức nóng của đời sống thực được xem là một “mũi xung kích” hoặc “mũi nhọn tiến công” của nền văn học mới. Một nhà thơ hay một nhà văn trung thành với một vùng sáng tác nào đó thì được gọi là “bám trụ”; đi tiên phong trong một lãnh vực nào đó thì biến thành “ngọn cờ”; tập trung vào việc đả kích địch thì được ví với việc “nổ súng”; thường xuyên phê phán địch thì được biểu dương là “nắm thắt lưng địch mà đánh”. Trong thơ, có những “bài thơ rực lửa chiến đấu”; trong âm nhạc, có “tiếng hát át tiếng bom”. Vượt ra ngoài phạm vi văn học, ở các lãnh vực khác, cũng thế. Một đám đông, dù chẳng liên quan gì đến quân sự, cũng được gọi là “đội quân”: “đội quân thất nghiệp”. Làm quang đất đai thì gọi là “giải phóng mặt bằng”. Một chương trình có nhiều người tham gia và được nhà nước cổ vũ thì được gọi là “chiến dịch” (ví dụ: “chiến dịch làm sạch đường phố”). Ngày mở đầu của những chiến dịch như vậy thường được gọi là “ra quân” (“Hà Nội ra quân chống ùn tắc giao thông”). Trấn giữ một địa điểm nào đó để làm nhiệm vụ, cho dù chỉ là nhiệm vụ phòng chống lũ lụt, cũng được gọi là “đóng chốt” hay “trực chiến” (“Chính quyền, các cơ quan chủ quản đã cử người đóng chốt, trực chiến tại những địa điểm nhiều nguy cơ lũ tràn về”).[44] Cách thức ăn uống đặc biệt cho một loại người nào đó trở thành “chế độ” ăn uống. Tự mình dằn vặt suy nghĩ để đi đến một quyết định quan trọng nào đó thì được gọi là “đấu tranh tư tưởng”. Tố Hữu có hai câu thơ tả một cánh đồng hợp tác xã ở miền Bắc: “Hãy xem! Đồng ruộng cũng chỉnh tề thế trận / Lúa đứng thẳng hàng quyết tâm năm tấn.” Một nhà thơ nào đó, hình như là Trinh Đường, có câu thơ tả tình yêu: “Tình yêu anh, em ạ, cũng lên nòng.”

Chủ trương thứ tư là hành chính hóa ngôn ngữ. Ở xã hội nào cũng có lớp từ vựng hành chính riêng. Xưa, có các từ sớ, tấu, chiếu, chỉ, bẩm, báo, trình, với những “quan”, những “cụ”, những “thầy” các loại. Xã hội ngày nay cũng vậy. Cũng có “cán bộ”, có “đồng chí”, có “báo cáo”, có “phương án giải quyết”, có “đăng ký” và “quản lý”, v.v. Chỉ có vấn đề là, khác với các nơi và thời khác, dưới chế độ cộng sản, lớp từ hành chính ấy cứ tràn ra đời sống hàng ngày. Ở mọi nơi. Kể cả những nơi quan hệ giữa người và người không có chút hành chính gì cả. Cũng có khi đó là chủ trương chung của nhà cầm quyền: Để xây dựng một xã hội mới với những con người mới, và đặc biệt, những quan hệ mới, người ta cổ vũ việc sử dụng lớp từ hành chính trong mọi trường hợp. Bạn bè là “đồng chí” của nhau. Những người “đồng chí” ấy không chuyện trò với nhau: Họ “trao đổi” hoặc “báo cáo” cho nhau, rồi “tự phê” và “phê bình” nhau. Sau những “báo cáo” và những “phê bình” ấy, người ta không cần hiểu rõ: Người ta chỉ cần “quán triệt”. Nếu một người còn hoang mang, người khác sẽ tiếp tục giúp “đả thông tư tưởng”. Con trai và con gái không gặp nhau: họ “phát hiện” ra nhau; họ không yêu nhau: họ có “quan hệ tình cảm” với nhau; họ không làm đám cưới với nhau, họ chỉ “đăng ký kết hôn”. Ngày xưa, chỉ có các nhà tư tưởng mới “tư duy” (Tôi tư duy vậy tôi hiện hữu, “Cogito ergo sum”, Descartes), bây giờ, trong quần chúng, ai cũng “tư duy” nên mặt mày ai cũng “khẩn trương” và cũng đầy “bức xúc”, nhất là khi gặp một “sự cố” gì đó mà người ta chưa có “phương án giải quyết”.

Việc hành chính hóa ngôn ngữ ấy làm xóa mờ ranh giới giữa cái riêng và cái chung, tính chất cá nhân và tính chất tập thể, kích thước xã hội và kích thước chính trị trong đời sống con người. Từ cái nhìn bên ngoài, chúng ta dễ thấy việc hành chính hóa ngôn ngữ ấy là một sự hài hước, thậm chí, lố bịch, do đó, nó trở thành đề tài của các truyện cười nhạo báng chế độ, kiểu nói chuyện với bố mẹ hay anh em bạn bè mà dùng chữ “báo cáo”; xin kết hôn mà dùng những chữ to tát như “đăng ký” hay “quản lý đời em”; hối thúc một người nào đó mà dùng chữ “hãy khẩn trương lên”… Tuy nhiên, từ cái nhìn trong cuộc, với việc phổ cập của lớp từ vựng hành chính trong đời sống hàng ngày như vậy, nhà cầm quyền đã thành công trong việc nhồi sọ quần chúng, biến mọi người thành một cứ công cụ như được đúc ra từ một cái khuôn duy nhất: người ta không còn sự riêng tư và sự độc đáo nữa.

Chủ trương thứ năm là tạo nên những từ mới hoặc áp đặt lên các từ cũ một nội dung mới hoàn toàn trái ngược hẳn với hiện thực vốn có. Ví dụ cho loại này nhiều vô cùng: thay cho chữ “trại tù”, họ gọi là “trại học tập” hay “trung tâm phục hồi nhân phẩm”; thay cho chữ “nhồi sọ”, họ gọi là “cải tạo tư tưởng”; thay vì gọi thẳng là tịch thu đất đai của địa chủ, họ dùng chữ “cải cách ruộng đất”; thay vì gọi thẳng tịch thu tài sản của người giàu, họ gọi là “đánh tư sản”; thay cho chữ “làm quan”, họ tự xưng là “đầy tớ nhân dân”; thay cho chữ “độc tài”, họ lại gọi là “làm chủ tập thể”; cán bộ đồi trụy, thay vì nói đồi trụy, họ dùng chữ “hủ hóa”; đối với hiện tượng tham nhũng hay thoái hóa của đảng viên, thay vì dùng chữ “nhiều”, họ dùng chữ “không ít” hoặc “một bộ phận”; thay vì thừa nhận thất bại trước các thử thách, họ dùng cách nói “từng bước khắc phục”; thay vì “bắt lính”, họ gọi là “đi nghĩa vụ quân sự”; thay vì nói đánh chiếm Campuchia, họ nói họ đang làm “nghĩa vụ quốc tế”; thay vì nói “bế tắc”, họ dùng chữ “hạn chế tất yếu”; những gì họ thích thì họ gọi là “bản chất” và “khách quan”; những gì không thích thì họ gọi là “hiện tượng” và “chủ quan”. Gọi như thế, người ta bất chấp cả sự thật. Chủ nghĩa cộng sản đã sụp đổ trên phạm vi toàn thế giới và những mặt trái của nó đã được vạch trần và đã trở thành hiển nhiên với mọi người, họ vẫn tiếp tục gọi nó là “tiến bộ”, là “đỉnh cao”, là “ưu việt” và là “quy luật phát triển” của lịch sử. Không có tự do bầu cử và cũng không có bất cứ một cuộc điều tra dân ý nào, người ta vẫn khăng khăng nhân danh “ý nguyện của toàn dân” để duy trì sự độc quyền lãnh đạo của mình. Suy nghĩ cũ mèm mà vẫn cứ ba hoa là “đổi mới tư duy”. Gần đây, họ gọi các cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở Hà Nội và Sài Gòn là các cuộc “tụ tập tự phát” của quần chúng; tàu Trung Quốc đâm nát tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam ngoài Biển Đông được gọi là “tàu lạ”; những vấn đề nhà cầm quyền không muốn nghe thì gọi là “nhạy cảm”, v.v.

Có thể nói, với những cách dùng từ hoặc định nghĩa từ ngang ngược như vậy, người ta tiến hành một cách quy mô, kiên trì và có hệ thống một cuộc cưỡng chế trong lãnh vực ngôn ngữ. Hậu quả là nó làm thay đổi hẳn ý nghĩa của rất nhiều từ quen thuộc hoặc làm cho chúng trở thành rỗng tuếch, không còn mang một ý nghĩa gì cả. Những chữ như “cách mạng”, “giải phóng”, “công bằng”, “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền”, “tiến bộ”, “phát triển”, “đỉnh cao trí tuệ”, “làm chủ tập thể”, “quần chúng”, “nhân dân”, thậm chí, cả chữ “yêu nước”… đều nằm trong trường hợp như thế. Ngay cả những chữ đơn giản như “đúng” và “sai”, “thật” và “giả”, “tiến bộ” và “lạc hậu”, “tốt” và “xấu”… cũng không còn nguyên nghĩa của chúng nữa. Trong các cặp đối lập ấy, khái niệm thứ nhất bao giờ cũng được sử dụng cho đảng, hoặc rộng hơn chút, cho “phe ta”; còn khái niệm sau bao giờ cũng thuộc về phe địch. Không có ngoại lệ. Đã là địch thì phải sai, phải giả, phải xấu và phải lạc hậu. “Ta” thì, ngược lại. Trong cuốn phim tài liệu Chuyện tử tế, Trần Văn Thủy đi hỏi ý nghĩa hai chữ “tử tế” và “vĩ đại”, hầu như ai cũng lúng túng. Bây giờ thử hỏi những người Việt Nam bình thường những từ như “tình hữu nghị” hay “láng giềng tốt” trong quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc thực sự có nghĩa là gì, hẳn ai cũng thấy hoang mang. Khi những người yêu nước, vì công phẫn trước những thái độ uy hiếp ngang ngược và trắng trợn của Trung Quốc đã xuống đường biểu tình, bị chính quyền, cũng nhân danh lòng yêu nước, trấn áp, đánh đập, bắt bớ, sỉ nhục và bị xem như một “thế lực thù địch”, người ta không còn thấy đâu là ranh giới giữa yêu nước và bán nước nữa. Bài thơ “Lẫn lộn lung tung” của Bùi Giáng, làm trước năm 1975, có giá trị như một sự tiên tri:

Tôi gọi Mỹ Tho là Mỹ Thỏ
Mỹ Thọ muôn đời là Lục Tỉnh hôm nay
Tôi gọi Sóc Trăng là Sóc Trắng
Gọi người sương phụ gái thơ ngây.

Trên báo chí trong nước, thỉnh thoảng có một số người còn nhiều tâm huyết lên tiếng báo động về tình trạng khủng hoảng của tiếng Việt. Bằng chứng họ nêu lên thường là những cách viết tắt, cố tình sai chính tả hoặc pha nhiều tiếng nước ngoài của giới trẻ trên facebook hay các blog. Nhưng dường như chưa ai thấy điều này: sự khủng hoảng trong tiếng Việt chủ yếu nằm trong lãnh vực chính trị và xuất phát từ giới cầm quyền. Nó nằm ngay trong các nghị quyết của đảng, các bài diễn văn của giới lãnh đạo và, cụ thể nhất, trên trang báo Nhân Dân hay Tạp chí Cộng sản, rồi từ đó, lan đi khắp nơi, trên các cơ quan truyền thông cũng như trong miệng của các cán bộ và đảng viên các cấp.

Không phải người ta không thấy những sự khủng hoảng ấy. Thấy nên phản ứng. Có ba loại phản ứng chính. Thứ nhất, không tin những gì chính quyền nói. Một trong những câu nói được nhắc nhở nhiều nhất của ông Nguyễn Văn Thiệu, nguyên Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, là: “Đừng nghe những gì cộng sản nói”. Xin lưu ý là: câu nói ấy chỉ thực sự gây tiếng vang và được phổ biến rộng rãi chủ yếu sau năm 1975, lúc ông Thiệu đã trở thành con người của quá khứ. Thứ hai, chính những người cộng sản, ngay cả cộng sản cao cấp, cũng thấy thẹn thùng khi sử dụng loại ngôn ngữ họ sáng chế và từng ra sức áp đặt lên xã hội. Có thể nêu lên hai ví dụ. Một là với chữ “đồng chí”. Trước, đó là cách xưng hô chính thức và phổ cập. Sau, nó chỉ hiện hữu trong các cuộc hội nghị. Nói chuyện với nhau, hầu như không ai gọi nhau là “đồng chí” nữa. Nghe chữ “đồng chí” là sợ: nó báo hiệu một màn đấu đá hoặc một tai họa.[45] Ngay ở Trung Quốc, chính quyền cũng khuyên dân chúng hạn chế dùng chữ “đồng chí” trên các phương tiện giao thông công cộng.[46] Hai là chữ “cộng sản”. Với nhiều người, kể cả đảng viên, cứ nghe người khác gọi mình là “cộng sản”, họ có cảm giác như nghe một lời chửi mắng. Chứ không có chút tự hào trong đó cả. Nhớ, đã khá lâu, trong một cuộc gặp gỡ ở Úc, một người là đảng viên khá cao cấp, hiện đàng làm việc trong ngành truyền thông ở Việt Nam, nhắc đến cuốn Văn học Việt Nam dưới chế độ cộng sản (1991 & 1996) của tôi, rồi hỏi: “Sao anh không đặt nhan đề là ‘Văn học dưới chế độ xã hội chủ nghĩa’ nhỉ?” Tôi ngạc nhiên hỏi lại: “Thế có khác gì nhau không?” Anh ấy đáp: “Khác chứ. Chữ ‘xã hội chủ nghĩa’ nghe thanh lịch hơn; còn chữ ‘chế độ cộng sản’ nghe ghê quá, cứ như một lời kết án.” Tôi lại hỏi: “Anh là đảng viên mà cũng có ấn tượng vậy sao?” Anh ấy đáp, thật thà: “Đó là ấn tượng chung của toàn xã hội mà. Tên đảng thì không ai dám đổi, nhưng trong đời sống hàng ngày, nghe mấy chứ ấy, mình cũng thấy ngài ngại.” Thứ ba, phản ứng lại sự lũng đoạn ngôn ngữ của chính quyền dưới hình thức phản-ngôn ngữ (anti-language) qua những cách nói hoàn toàn bất chấp nguyên tắc ngữ nghĩa cũng như ngữ pháp thông thường.

Hiện tượng phản-ngôn ngữ, vốn xuất hiện và phổ biến ở Việt Nam, đặc biệt là ở miền Bắc, trong vài thập niên trở lại đây, có nhiều hình thức khác nhau.

Nhớ, lần đầu tiên tôi về Việt Nam là vào cuối năm 1996. Lần ấy, tôi ở Việt Nam đến bốn tuần. Một trong những ấn tượng sâu đậm nhất còn lại trong tôi là những thay đổi trong tiếng Việt. Có nhiều từ mới và nhiều cách nói mới tôi chỉ mới nghe lần đầu. Ví dụ, trà Lipton được gọi là “trà giật giật”; cái robinet loại mới, có cần nhấc lên nhấc xuống (thay vì vặn theo chiều kim đồng hồ) trong bồn rửa mặt được gọi là “cái gật gù”; ăn cơm vỉa hè được gọi là “cơm bụi”; khuôn mặt trầm ngâm được mô tả là “rất tâm trạng”; hoàn cảnh khó khăn được xem là “rất hoàn cảnh”; thịt beefsteak được gọi là “bò né”. Sau này, đọc báo trong nước, tôi gặp vô số các từ mới khác, như: “đại gia”, “thiếu gia”,[47] “chân dài”, “chảnh” (kênh kiệu),[48] “bèo” (rẻ mạt), “khủng” (lớn); “tám” (tán gẫu); “buôn dưa lê” (lê la, nhiều chuyện), “chém gió” (tán chuyện), “gà tóc nâu” (bạn gái), “xe ôm” (bạn trai), “máu khô” (tiền bạc), “con nghẽo” (xe máy), “cà phê sung sướng” (cà phê sex), “mát gần” (kiểu massage kích dục), v.v.

Trong các từ mới ấy, có từ hay có từ dở, tuy nhiên, tất cả đều bình thường. Ngôn ngữ lúc nào cũng gắn liền với cuộc sống. Cuộc sống thay đổi, ngôn ngữ thay đổi theo. Những sản phẩm mới, hiện tượng mới và tâm thức mới dẫn đến sự ra đời của các từ mới. Ở đâu cũng vậy. Tất cả các từ điển lớn trên thế giới đều có thói quen cập nhật các từ mới hàng năm. Có năm số từ mới ấy lên đến cả hàng ngàn. Việt Nam không phải và không thể là một ngoại lệ. Đối diện với những từ mới ấy, có hai điều nên tránh: một, xem đó là những từ ngớ ngẩn rồi phủ nhận tuốt luốt; và hai, xem đó là từ… Việt Cộng và tìm cách chối bỏ chúng.

Tuy nhiên, điều tôi chú ý nhất không phải là sự xuất hiện của các từ mới hay các tiếng lóng mới ấy. Mà là những cách nói mới, rất lạ tai, thậm chí, quái gở, phổ biến khắp nơi, ngay cả trong giới trí thức và văn nghệ sĩ tiếng tăm, đặc biệt ở Hà Nội.

Có thể tóm gọn các cách nói mới ấy vào bốn điểm.

Thứ nhất, hiện tượng dùng nguyên cả một cụm từ hoặc một từ ghép hoặc một tên riêng của một người, một địa phương hoặc một nước để chỉ lẩy ra một từ tố trong đó. Ví dụ, thay vì nói “lâu”, người ta nói “Hà Văn Lâu” (hay “Hồng Lâu Mộng”); thay vì nói “đông” (đúc), người ta nói “Hà Đông”; thay vì nói “xa”, người ta nói “Natasha” (chỉ lấy âm cuối, “Sha”, phát âm theo giọng miền Bắc là “xa”); thay vì nói “xinh” (xắn), người ta nói “nhà vệ sinh” (âm /s/ bị biến thành /x/); thay vì nói “tiện”, người ta nói “đê tiện”; thay vì nói “cạn” (ly), người ta nói “Bắc Cạn”; thay vì nói “can” (ngăn), người ta nói “Lương Văn Can”; và thay vì nói “chia” (tiền), người ta nói “Campuchia”. Cuối cùng, người ta có một mẩu đối thoại lạ lùng như sau:

“Đi gì mà Hà Văn Lâu thế?''
''Ừ, tại đường Hà Đông quá!''
''Từ đấy đến đây có Natasa không?''
“Không. À, mà hôm nay em trông hơi nhà vệ sinh đấy nhé!”
“Khéo nịnh! Tí nữa, đi về, có đê tiện, mua giùm em tờ báo nhé!”
“Ừ, mà thôi, bây giờ nhậu đi!”
“Ừ, Bắc Cạn đi, các bạn ơi!''
“Thôi, tôi Lương Văn Can đấy!”
''Này, hết bao nhiêu đấy, để còn Campuchia?''

Thứ hai, hiện tượng dùng chữ “vô tư”. Lúc ở Hà Nội, một trong những từ tôi nghe nhiều nhất là từ “vô tư”. Nó được dùng một cách lạm phát. Cái gì cũng “vô tư”. Bạn bè, gồm toàn các giáo sư và nhà văn nổi tiếng ở Hà Nội, rủ tôi vào quán thịt cầy. Thấy tôi thoáng chút ngần ngại, họ liền nói: “Cứ vô tư đi mà! Thịt cầy ở đây ngon lắm!” Sau khi uống vài ly rượu, cảm thấy hơi chếch choáng, tôi xin phép ngưng, họ lại nói: “Không sao đâu, cứ vô tư uống thêm vài ly nữa cho vui. Rượu này ngâm thuốc, bổ lắm!” Cuối tiệc, tôi giành trả tiền, họ lại nói: “Không, bọn tôi đãi, anh cứ vô tư đi!” Cứ thế, trong suốt bữa tiệc hai ba tiếng đồng hồ, tôi nghe không dưới vài chục lần từ “vô tư”. Chữ “vô tư” ấy phổ biến đến độ lọt cả vào trong thơ Nguyễn Duy:

Mình vô tư với ta đi
Vô tư nhau chả cần chi nhiều lời
Vô tư thế chấp đời người
Trắng tay còn chút coi trời bằng vung
Luật chơi cấm kị nửa chừng
Vô tư đặt cọc tận cùng chiếu manh
Liền em vô tư liền anh
Không ngây không dại không đành phải không

Thứ ba, hiện tượng dùng các phụ từ “hơi bị”. Bình thường, trong tiếng Việt, “bị”, đối lập với “được”, chỉ những gì có ý nghĩa tiêu cực và ngoài ý muốn. Bất cứ người Việt Nam nào cũng biết sự khác biệt giữa hai cách nói “Tôi được thưởng” và “Tôi bị phạt”. Vậy mà, ở Việt Nam, ít nhất từ giữa thập niên 1990 đến nay, ở đâu, người ta cũng nghe kiểu nói “Cô ấy hơi bị hấp dẫn”, “Ông ấy hơi bị giỏi”, “chiếc xe ấy hơi bị sang”, “nhà ấy hơi bị giàu”, hay “bức tranh ấy hơi bị đẹp”, v.v.

Cuối cùng là hiện tượng các thành ngữ mới đã được Thành Phong sưu tập và minh họa trong cuốn Sát thủ đầu mưng mủ (sau đó bị tịch thu, năm 2011), bao gồm những câu kiểu:

ăn chơi sợ gì mưa rơi
buồn như con chuồn chuồn
chán như con gián
chảnh như con cá cảnh
chuyện nhỏ như con thỏ
bực như con mực
cực như con chó mực
đau khổ như con hổ
đen như con mèo hen
đói như con chó sói
đơn giản như đan rổ
dốt như con tốt
đuối như trái chuối
ghét như con bọ chét
già như quả cà
hồn nhiên như cô tiên
im như con chim
lạnh lùng con thạch sùng
ngất ngây con gà tây
ngốc như con ốc
phê như con tê tê
sành điệu củ kiệu
tê tái con gà mái
thô bỉ như con khỉ
tự nhiên như cô tiên
tinh vi sờ ti con lợn
xinh như con tinh tinh

Tất cả những hiện tượng trên đều có một số đặc điểm chung. Thứ nhất, có lẽ chúng xuất phát từ Hà Nội, sau đó, lan truyền ra cả nước, kể cả Sài Gòn. Thứ hai, chúng phổ biến không phải chỉ trong giới trẻ mà còn cả trong giới trí thức lớn tuổi, kể cả giới học giả, giáo sư đại học và văn nghệ sĩ nổi tiếng. Thứ ba, tất cả những cách nói ấy đều ngược ngạo, thậm chí, vô nghĩa. Chả có ai có thể giải thích được những kiểu nói như “buồn như con chuồn chuồn” hay “chán như con gián” hay “im như con chim”, “xinh như con tinh tinh”… trừ một điều duy nhất: chúng có vần vè với nhau. Vậy thôi.

Trong lịch sử tiếng Việt, thỉnh thoảng lại xuất hiện những hiện tượng mới, đặc biệt trong khẩu ngữ, nhiều nhất là trong tiếng lóng. Tuy nhiên, có lẽ chưa bao giờ lại có những hiện tượng nói năng ngược ngạo và vô nghĩa như hiện nay. Ở miền Nam trước năm 1975, người ta làm quen với những kiểu nói như “lính mà em”, “tiền lính tính liền”, “sức mấy mà buồn”, “bỏ đi Tám”, “OK Salem”, “mút mùa Lệ Thủy”, “thơm như múi mít”, “bắt bò lạc”, “một câu xanh rờn”, v.v. Với hầu hết những kiểu nói như thế, người ta có thể hiểu được. Còn bây giờ? Không ai có thể giải thích được. Chúng ngược ngạo đến mức quái đản. Và chúng vô nghĩa đến mức phi lý.

Vậy tại sao chúng lại ra đời, hơn nữa, phổ biến rộng rãi trong xã hội, ngay trong giới có học thuộc loại cao nhất nước?

Dĩ nhiên không phải vì người ta không biết. Biết, chắc chắn là biết; nhưng người ta vẫn chọn những cách nói ấy. Đó là một chọn lựa có ý thức chứ không phải một thói quen vô tình. Sự chọn lựa ấy chỉ có thể được giải thích bằng một cách: người ta muốn nói khác. Khác với cái gì? Với những quy ước ngôn ngữ đang thống trị trong xã hội và thời đại của họ. Khi những cái khác ấy được thực hiện một cách bất chấp luận lý và quy luật, chúng trở thành một thách thức, một sự chối bỏ, hay đúng hơn, một sự phản kháng. Bình thường, không ai phản kháng ngôn ngữ. Bởi ai cũng phải sử dụng ngôn ngữ. Người ta chỉ phản kháng tính chất giả dối, khuôn sáo, cũ kỹ, chật chội trong ngôn ngữ hoặc đằng sau ngôn ngữ: văn hóa, chính trị và xã hội. Bởi vậy, tôi mới xem những cách nói ngược ngạo phổ biến tại Việt Nam hiện nay như một thứ phản-ngôn ngữ: nó là một phần của thứ đối-văn hóa (counter-culture), xuất phát từ động cơ muốn thoát khỏi, thậm chí, chống lại những giá trị, những quy phạm và những chuẩn mực mà người ta không còn tin tưởng và cũng không muốn chấp nhận nữa.

Nói cách khác, nếu việc sử dụng ngôn ngữ trong bộ máy tuyên truyền của đảng và nhà nước Việt Nam mang đầy tính chính trị thì hiện tượng phản-ngôn ngữ đang phổ biến tại Việt Nam hiện nay cũng có tính chính trị. Thứ chính trị trên dựa trên sự áp chế, độc tài và giả dối; thứ chính trị dưới là một sự phản kháng lại thứ chính trị trên nhưng lại dựa trên một thứ chủ nghĩa hư vô đầy tuyệt vọng.

 

_________________________

[1]Ferdinand de Saussure, (1983) Course in General Linguistics, Roy Harris dịch, La Salle, Ill.: Open Court, tr.66.

[2]Dưới đây, tôi dùng chữ “cả hai” để chỉ Bakhtin và Voloshinov chứ không phân biệt quan điểm của từng người vì, cho đến nay, trong giới học thuật, có tin đồn là phần lớn những gì được ký dưới tên của Voloshinov đều do Bakhtin viết. Voloshinov mất sớm; Bakhtin mất muộn hơn (năm 1975) nhưng cũng không hề cải chính tin đồn ấy. Đến nay, nó vẫn là một ẩn số.

[3]V.N. Voloshinov (1973), Marxism and the Philosophy of Language, Ladislav Materjka & I.R. Titunik dịch, Cambridge: Harvard University Press, tr.21.

[4]Như trên, tr.98.

[5]Michel Foucault (1977), Discipline and Punish: The Birth of the Prison, Alan Sheridan dịch, Harmondsworth: Penguin, tr.27-8.

[6]Pierre Bourdieu (1991), Language & Symbolic Power, Gino Raymond & Matthew Adamson dịch, Cambridge: Polity Press, tr.40.

[7]Erving Goffman (1972), Interaction Ritual: Essays on Face-to-Face Behaviour, Harmondsworth: Penguin, tr.37-8.

[8]Edward Sapir (1958), Culture, Language and Personality (D.G. Mandelbaum biên tập), Berkeley: University of Cailornia Press; và Benjamin Lee Whorf (1956), Language, Thought and Reality (J.B. Carroll biên tập), Cambridge: MIT Press.

[9] http://www.independent.co.uk/news/science/unlocking-the-secret-sounds-of-language-life-without-time-or-numbers-477061.htmlhttp://www.spiegel.de/international/spiegel/brazil-s-piraha-tribe-living-without-numbers-or-time-a-414291.html

[10]Xem bài “Language, Gender and Chinese Culture” của Carol C. Fan trên International Journal of Politics, Culture and Society, vol. 10, n. 1, 1996, tr.95-114; và bài “Sexism in the Chinese Language” của Dali Tan trên NWSA Journal, vol. 2, N. 4, Autumn 1999, tr.635-639.

[11]Có thể đọc cuốn Nửa chừng xuân trên mạng: http://vanhoc.xitrum.net/tieuthuyet/663_ch7.html

[12]Xem Máiread Nic Gcraith (biên tập) (2007), Language, Power and Identity Politics, New York: Palgrave, tr.3.

[13]Ali A. Mazrui, “The Power of Language and the Politics of Religion”, The Round Table, vol. 97, N. 394, tháng 2, 2008, tr.79-97.

[14]Ali A. Mazrui, bài đã dẫn, tr.80.

[15]Câu này và câu trên dẫn theo Tomasz Kamusella (2012), The Politics of Language and Nationalism in Modern Central Europe, New York: Palgrave Macmillan, tr.1.

[16]Dẫn theo Tomasz Kamusella (2012), sđd., tr.1.

[17]Jurgen Jaspers, Jan-Ola Ostman & Jef Verschueren (2010), Society and Language Use, Amsterdam: John Benjamins Publishing Company, tr.180.

[18]Ở Việt Nam, khái niệm “ngôn ngữ chính thức” chỉ được sử dụng lần đầu tiên trong Luật giáo dục tiểu học ngày 10/12/1998 (“Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức dùng trong nhà trường”), tuy nhiên, trên thực tế, việc này đã được áp dụng một cách mặc nhiên ngày từ sau năm 1945.

[19] http://www.ethnologue.com/show_country.asp?name=CN

[20]Hiện nay, vào tháng 8, 2012, Quốc Hội Mỹ, lần đầu tiên, mới bàn thảo về đạo luật (H.R. 997) xem tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức trong cả nước. Xem bài “English can unify America” trên báo Politico: http://www.politico.com/news/stories/0812/80054.html

[21]Catrin Norrby & John Hajek (2011), Uniformity and Diversity in Language Polity: Global Perspectives, Bristol (England): Multilingual Matters, tr.37-52.

[22]http://groundviews.org/2011/10/24/reflections-on-issues-of-language-in-sri-lanka-power-exclusion-and-inclusion/

[23]Dẫn theo Phạm Thế Ngũ (1965), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập 3, Đại Nam in lại ở hải ngoại, tr.116.

[24]Phạm Quỳnh (1992), Tuyển tập và di cảo, Paris: An Tiêm, tr.117.

[25]Phạm Quỳnh (1992), sđd., tr.332.

[26]Ngay sau khi giành chính quyền vào tháng 8, 1945, chính phủ Việt Nam ra hai sắc lệnh liên quan đến ngôn ngữ. Sắc lệnh số 19 ký ngày 8/9/1945 viết: "Việc học chữ quốc ngữ từ nay bắt buộc và không mất tiền cho tất cả mọi người. Hạn trong một năm, toàn thể dân chúng Việt Nam trên 8 tuổi phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Quá hạn đó, một người dân Việt Nam trên 8 tuổi mà không biết đọc và biết viết chữ quốc ngữ đó sẽ bị phạt tiền". Sắc lệnh số 20 cũng ký ngày 08/9/1945 viết: "Trong toàn cõi Việt Nam, sẽ thiết lập cho nông dân và thợ thuyền những lớp học bình dân buổi tối. Trong hạn 6 tháng, làng nào và đô thị nào cũng phải có ít ra là một lớp học dạy ít nhất là 30 người.” Xem http://ngonngu.net/index.php?p=172

[27]Vladimir M. Alpatov (2000), “What is Marxism in Linguistics?” in trong cuốn Materializing Bakhtin: The Bakhtin Circle and Social Theory, Craig Brandist, Galin Tihanov biên tập (2000), Basingstoke: Palgrave Macmillan Ltd., tr.173-193.

[28]Xem Vladimir M. Alpatov (2000), sđd., tr.184.

[29]Như trên, tr.175-6.

[30]Xing Lu (2004), Rhetoric of the Chinese Cultural Revolution: Th eImpact on Chinese Thought, Culture and Communication, Columbia: University of South Carolina Press.

[31]Andrei Sinyavsky (1990), Soviet Civilization, A Cultural History, Joanne Turnbull dịch từ tiếng Nga, New York: Arcade Publishing, tr.190-225.

[32]Xem bài “Chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử” của Nguyễn Thiện Giáp trên http://ngonngu.net/index.php?p=172

[33]Chữ “kỳ” xuất hiện lần đầu tiên từ năm 1834, dưới thời Minh Mạng. Lúc ấy, Minh Mạng chia Việt Nam thành ba “kỳ”: Nam Kỳ, Bắc Kỳ và Kinh Kỳ (Huế). Pháp chiếm Việt Nam, vẫn duy trì chữ “kỳ” ấy, chỉ đổi Kinh Kỳ thành Trung Kỳ. Khi Việt Nam lên nắm chính quyền, chữ “kỳ” được đổi thành chữ “bộ”. Năm 1948, chính phủ Nguyễn Văn Xuân, để khác với thời Việt Minh, đổi chữ “bộ” thành chữ “phần”, từ đó, chúng ta có: Nam phần, Trung phần và Bắc phần; nhưng một năm sau, họ lại chủ trương dùng chữ “Việt”: Bắc Việt, Trung Việt và Nam Việt. Năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa lại đổi chữ “Việt” thành chữ “phần” như cũ. Xem thêm chi tiết về những sự thay đổi này trong cuốn Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865-1930 của Bằng Giang, nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1992, tr.10-18.

[34]Sự thay dổi này đã có từ chính phủ Trần Trọng Kim vào đầu năm 1945.

[35]Bài “Không nói” này có ít nhất ba dị bản: bản đăng trên báo Văn Nghệ năm 1948; trong tập Người chiến sĩ năm 1960 và trong cuốn Thơ Nguyễn Đình Thi năm 2001. Ở bản sau cùng, Nguyễn Đình Thi bỏ chữ “đồng chí”. Xem bài “Cuộc tranh chấp hai con người trong thơ Nguyễn Đình Thi” của Hoàng Hưng trên http://trieuxuan.info/?pg=tpdetail&id=8466&catid=6

[36]Thơ Tú Mỡ: “Dân thủ đô khoái tệ / Có tiếng cười ngạo nghễ / Tổng Giôn thèm chuối tiêu / Ông cho... xơi đằng rễ.” Hồ Chí Minh cũng thường xuyên sử dụng những cách nói này trong cuốn Nói chuyện Mỹ... ký tên C.B., Đ.X., T.L., Chiến Sĩ và Trần Lực do Quân Đội Nhân Dân xuất bản tại Hà Nội năm 1972.

[37]Giai Phẩm mùa thu, 1956, tập 1, tr.11.

[38]Peter A. DeCaro (2003), Rhetoric of Revolt: Ho Chi Minh’s Discourse for Revolution, London: Praeger, tr.31.

[39]DeCaro (2003) ghi nhận một chi tiết: Khác với các lãnh tụ cách mạng khác, Hồ Chí Minh không bao giờ mang súng. (tr.61)

[40]DeCaro (2003) giải thích chữ “Bác” trước tên Hồ Chí Minh bằng hai lý do: một, vào năm 1945, Hồ Chí Minh thuộc thế hệ lớn hơn các nhà lãnh đạo khác trong đảng; và hai, cách xưng hô ấy đồng nghĩa với cách hành xử dân chủ: “bố có thể ra lệnh nhưng bác thì chỉ khuyên bảo” (tr.72). Về điểm thứ nhất, đồng ý là vào năm 1945, Hồ Chí Minh lớn tuổi hơn hẳn những người khác, nhưng việc gọi ông bằng “Bác” không phải “tự nhiên” (natural) như DeCaro nghĩ. Theo lời kể của một số người, trong đó có Trần Văn Giàu – người, trước đó, đã từng gặp Hồ Chí Minh và vẫn thường gọi Hồ Chí Minh bằng “anh” - đó là lệnh của Hồ Chí Minh. Về điểm thứ hai, không nên quên Hồ Chí Minh vẫn thường tự xưng là “cha già của dân tộc”. Chỉ có điều là ông không có lựa chọn nào khác: Không thể bắt mọi người gọi mình là “bố” hay “cha”. Đành phải chọn chữ “bác”. Tuy nhiên, theo truyền thống Việt Nam, “quyền huynh thế phụ”. Trong trường hợp không có ông bà, người “bác” duy nhất ấy sẽ có quyền hơn cả cha, do đó, có thể ra lệnh chứ không phải chỉ biết khuyên bảo. Về chữ “bác” này, tôi có trình bày trong cuốn Phản tỉnh và Phản biện (2012), tr.195-6.

[41]Bổ nghĩa cho danh từ.

[42]Bổ nghĩa cho động từ hoặc tính từ.

[43]Andrei Sinyavsky (1990), sđd., tr.204-5. Tôi đoán tác giả luận án tiến sĩ này chính là Hoàng Ngọc Hiến (1930-2011). Và Sinyavsky nhớ nhầm: luận án này được đệ trình vào đầu thập niên 1960 chứ không phải đầu thập niên 1950. Các nghiên cứu sinh cấp tiến sĩ của Việt Nam chỉ được gửi sang Nga du học từ cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960.

[44]Ví dụ này và ví dụ trên được dẫn lại từ bài “Dấu vết chiến tranh trong tiếng Việt” của Nguyễn Đức Dân trên báo Sài Gòn Tiếp Thị ngày 2.9.2012: http://sgtt.vn/Khoa-giao/164018/Dau-vet-chien-tranh-trong-tieng-Viet.html

[45]Có thể thấy điều này qua một ví dụ khá tiêu biểu: Bài thơ “Cho một nhà văn nằm xuống” viết nhân cái chết của nhà văn Nguyên Hồng của Trần Mạnh Hảo (1982) bị phê phán kịch liệt. Võ Văn Kiệt, lúc ấy là Bí thư thành uỷ thành phố Hồ Chí Minh, cho gọi Trần Mạnh Hảo đến gặp. Trần Mạnh Hảo rất sợ. Thế nhưng cảm giác sợ hãi ấy tiêu tan ngay khi ông nghe câu nói đầu tiên của Võ Văn Kiệt: “Hảo à! Đù má… Mày làm cái gì mà dữ vậy?” Trần Mạnh Hảo giải thích: “Anh phải hiểu rằng tính cách người Nam Bộ là thế. Sống với nhau trong cơ quan hay lúc sinh hoạt thường hay dùng câu ĐM kèm theo. Thân tình mới có câu ĐM. Còn đã gọi nhau bằng đồng chí là ‘có chuyện’. Nghe được lời mắng của anh Sáu (Võ Văn Kiệt) lại có kèm ĐM, tôi biết ngay là ‘thoát’.” Chuyện này được thuật lại trong bài “Much Ado About Nothing” của Phạm Xuân Nguyên trên Talawas: http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=1621&rb=0102

[46]http://www.reuters.com/article/2010/05/31/us-china-comrade-idUSTRE64U0WP20100531

[47]Cả hai từ “đại gia” và “thiếu gia” đều là những từ cũ, ngày xưa; bây giờ được dùng lại.

[48]Gần đây, chữ “chảnh” còn được nói dưới hình thức tiếng Anh bồi là “lemon question” (chanh + hỏi); cũng như chữ “vô từ” còn được nói là “no four” (không = vô + bốn = tư). Giống như trước 1975, người ta từng nói “no star where” – không sao đâu.
 
 
 


Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021