thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Ngọn tháp đền thờ nhìn từ xa

 

Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn

 

ALIFA RIFAAT

(1930-1996)

 
Alifa Rifaat, sinh năm 1930, là một nhà văn Ai-cập có những tác phẩm gây nhiều tranh cãi trong thế giới Hồi giáo vì bà đã dũng cảm diễn tả những ý tưởng nữ quyền, đi lệch ra khỏi các định chế truyền thống của tôn giáo ấy. Bà chỉ nói và viết tiếng Ả-rập, không hề biết ngoại ngữ, nhưng bà đã du hành đến nhiều nước và tác phẩm của bà đã được dịch ra tiếng Anh, Đức, Hoà-lan, Thuỵ-điển, và nhiều thứ tiếng khác.
 
Khi còn trẻ, Alifa Rifaat muốn vào đại học, nhưng cha mẹ của bà không cho phép, và họ quyết định rằng bà phải lập gia đình trong một cuộc hôn nhân do họ xếp đặt. Bà đành phải chấp nhận lấy chồng. Tuy nhiên, Alifa Rifaat đã sử dụng ngòi bút như một lối thoát tư tưởng, và bà bắt đầu viết truyện ngắn vào năm 1955 dưới một bút danh bí mật, và gửi đăng trên tạp chí al-Risala. Khi chồng của bà khám phá ra điều này, ông đã kịch liệt phản đối, và bà đành phải ngưng viết suốt 17 năm. Năm 1972, bà quyết định trở lại với văn chương, bất chấp sự chống đối của chồng. Lần này bà viết dưới tên thật, và trở thành một trong những nhà văn nữ quyền đầu tiên trong thế giới Hồi giáo. Tác phẩm của Alifa Rifaat phản ảnh những sự bất công mà phụ nữ Hồi giáo phải gánh chịu và, đặc biệt, bà đã dám vượt qua những thành kiến khắt khe của xã hội để nói lên những cảm nhận thầm kín về tình yêu và tình dục của người phụ nữ. Năm 1981, bà xuất bản tập truyện ngắn đầu tay Man yakun al-Rajul? [Ai sẽ là đàn ông?], và sau đó bà xuất bản thêm bốn tập truyện ngắn và một cuốn tiểu thuyết.
 
Tác phẩm nổi danh nhất của bà là tập truyện ngắn thứ năm, được Denys Johnson-Davies dịch sang tiếng Anh và nhà Heinemann xuất bản năm 1985 dưới nhan đề Distant View of a Minaret And Other Stories [Ngọn Tháp Đền Thờ Nhìn Từ Xa và những truyện khác]. Truyện ngắn dưới đây chính là truyện nổi tiếng nhất trong cuốn sách ấy.
 
Alifa Rifaat sinh ra 3 người con, trở thành goá phụ năm 48 tuổi, và suốt đời vẫn giữ tín ngưỡng Hồi giáo. Bà qua đời tại Cairo vào tháng Giêng năm 1996.

 

__________________

 

NGỌN THÁP ĐỀN THỜ NHÌN TỪ XA

 

Nàng nhìn chồng nàng qua đôi mắt khép hờ. Nằm nghiêng một bên, thân xác hắn gắn vào thân xác nàng, và đầu hắn khum xuống, dựa vào vai bên phải của nàng. Như thường lệ, vào những lúc ấy, nàng cảm thấy hắn sống trong một thế giới hoàn toàn riêng biệt, một thế giới mà nàng đã bị gạt ra ngoài. Chỉ mơ hồ nhận thức những chuyển động của thân xác hắn, nàng xoay đầu qua một bên, nhìn lên trần nhà và bắt gặp một cái mạng nhện. Nàng tự nhủ mình sẽ phải lấy cái chổi dài để quét nó xuống.

Lúc họ vừa cưới nhau, nàng đã ngầm cố gắng dẫn dụ cho chồng nàng cảm nhận được nỗi khát khao cháy bỏng trong nàng, với hy vọng hắn sẽ kéo dài hơn; nhưng nàng quá e thẹn và quá ngần ngại để diễn tả thẳng thắn về điều ấy. Thế rồi, sau vài lần thoáng cảm thấy mình sắp đạt đến cái kinh nghiệm mà vài người bạn gái có chồng đã kể cho nhau nghe bằng giọng thầm thì, nàng bắt đầu có can đảm để diễn tả điều nàng muốn một cách cụ thể hơn. Vào những khoảnh khắc ấy, nàng cảm thấy dường như chỉ cần có thêm một nhịp chuyển động nữa là cả xác và hồn của nàng sẽ thoả nỗi khát khao, và một khi đã đạt được điều ấy thì cả hai người sẽ biết cách tái hiện nó cho những lần sau. Thế nhưng, lần nào cũng thế, trong lúc nàng đang hổn hển giục giã hắn tiếp tục kéo dài thêm nhịp điệu ấy, thì — như thể cố tình ngăn cản khoái cảm của nàng — hắn lại hối hả thúc nhanh lên và đột ngột chấm dứt. Đôi khi nàng đã cố gắng tột bậc để duy trì những chuyển động nhịp nhàng ấy lâu thêm một chút, nhưng hắn luôn luôn ngăn cản nàng. Lần cuối cùng nàng cố gắng làm như thế, vì quá tuyệt vọng trong giây phút cận kề thiên đỉnh, nàng đã dùng những móng tay bấu vào lưng hắn, ghì chặt hắn, giữ cho hắn ở lại trong nàng. Hắn đã thét lên và xô nàng ra:

"Điên rồi hả, con mụ này? Muốn giết tôi hay sao?”

Có lẽ hắn đã tạo ra ở nơi sâu thẳm trong lòng nàng một vết chàm xấu hổ không thể tẩy xoá, khiến cho nàng, bất cứ lúc nào vừa thoáng nghĩ đến hình ảnh ấy, phải cảm thấy đỏ mặt. Từ đó, nàng chấp nhận vai trò thụ động của mình, và đôi khi tự nhủ: “Có lẽ chính mình là người có lỗi. Có lẽ mình đòi hỏi như thế là vô lý, và mình không biết ứng xử cho đúng đắn.”

Trước kia, có những lúc hắn đã tiết lộ rằng hắn có quan hệ với những người đàn bà khác, và bây giờ đôi khi nàng nghi ngờ rằng hắn vẫn còn dây dợ lăng nhăng, nhưng nàng cảm thấy ngạc nhiên vì ý nghĩ đó không còn làm cho nàng bực dọc nữa.

Thình lình những động tác dồn dập hơn của hắn khiến nàng rơi ra khỏi dòng ý nghĩ. Nàng ngoái lại và trông hắn đang hì hục trong cái thế giới của riêng hắn. Đôi mắt hắn nhắm nghiền, cặp môi hắn trề xuống trông vặn vẹo xấu xa, và những sợi gân máu ở cổ hắn phồng lên. Nàng thấy bàn tay hắn nắm lấy đùi nàng, và hắn đẩy hai đầu gối nàng dang rộng ra trong lúc những cử động của hắn dồn nhanh hơn. Nàng nhìn đăm đăm vào bàn chân của nàng — bây giờ nó đang giơ lên, chĩa về phía cái mạng nhện trên trần nhà — và nàng thấy các móng chân của nàng cần được tỉa bớt.

Trong khoảnh khắc đó, như vẫn thường xảy ra, nàng nghe tiếng kẻng báo hiệu giờ cầu nguyện buổi chiều văng vẳng xuyên qua những bức rèm của khung cửa sổ khép, và nàng trở lại với thực tại. Hắn thốt lên một tiếng rên, buông hai đùi nàng ra, và lập tức rút lui. Rút một chiếc khăn tắm nhỏ từ dưới cái gối, hắn quấn nó quanh người, xoay lưng về phía nàng, và ngủ thiếp đi.

Nàng nhỏm dậy và nhón chân đi vào buồng tắm, ngồi lên cái bidet[1] và rửa. Nàng không còn cảm thấy một chút khao khát nào nữa để tự làm thoả mãn như nàng vẫn thường làm trong những năm đầu tiên của cuộc hôn nhân. Đứng dưới vòi sen, nàng đưa nửa người bên phải vào làn nước ấm, rồi nửa người bên trái, lặp lại cái nguyên tắc thanh tẩy theo nghi thức tín ngưỡng[2] trong khi nước tuôn chảy dọc xuống thân thể nàng. Nàng gói mái tóc ướt vào trong một chiếc khăn tắm và quấn một chiếc khăn tắm lớn khác dưới nách. Trở lại buồng ngủ, nàng mặc một bộ áo dài ở nhà, rồi lấy tấm thảm cầu nguyện từ nóc tủ và bước ra khỏi buồng ngủ, khép cửa lại sau lưng.

Trong lúc nàng đi ngang qua phòng sinh hoạt, nàng nghe những âm thanh của nhạc pop vẳng ra từ phòng của Mahmoud, đứa con trai của nàng. Nàng mỉm cười khi tưởng tượng nó nằm duỗi dài trên giường, đọc một cuốn vở học; và nàng kinh ngạc về cái khả năng tập trung của nó giữa những tiếng ồn như thế. Nàng khép cửa phòng sinh hoạt, trải tấm thảm ra và bắt đầu xướng lên những lời cầu nguyện. Khi đã xướng xong bốn rak’a, [3] nàng quỳ xuống trên một góc tấm thảm và nhẩm đếm những câu ca ngợi đấng toàn năng, cứ mỗi ba câu thì nàng bấm vào một đốt ngón tay. Lúc ấy là cuối mùa thu và chẳng mấy chốc sẽ đến giờ cầu nguyện vào lúc chiều tà, và nàng cảm thấy vui với ý nghĩ rằng nàng lại sắp cầu nguyện thêm một lần nữa. Năm buổi cầu nguyện mỗi ngày giống như những dấu chấm câu, chia cuộc sống của nàng thành những phần khác nhau và mang ý nghĩa cho cuộc sống của nàng. Đối với nàng, mỗi buổi cầu nguyện có một tính chất đặc thù, cũng giống như các loại thức ăn có hương vị riêng của chúng. Nàng xếp tấm thảm lại và bước ra đứng nơi cái ban-công nhỏ.

Phủi sạch bụi trên chiếc ghế mây ở đó, nàng ngồi nhìn xuống đường phố từ tầng sáu. Nàng bị tấn công bởi tiếng máy ầm ĩ của những chiếc xe buýt, tiếng còi ô-tô, tiếng rao của những kẻ bán hàng rong và thứ tiếng ồn chát chúa của những chiếc radio tranh nhau gào từ những căn hộ kế cận. Những đám khói bốc lên từ ống thải thán khí của xe cộ làm nhoà hình dáng của ngọn tháp đền thờ đơn độc mà nàng có thể nhìn thấy ở giữa hai khối nhà chúng cư cao lớn. Ngọn tháp đơn độc này, một trong hai ngọn tháp của Đền Sultan Hassan, với một nét mỏng của Cổ Thành nhô lên trên nó, là tất cả những gì còn lại của quang cảnh thoáng rộng trên thành phố Cairo cổ xưa mà nàng đã có lần chiêm ngưỡng, với vô số những ngôi đền và những ngọn tháp mà đàng sau là vùng Đồi Makattam và Cổ Thành của Mohamed Ali.

Trước khi lập gia đinh, nàng đã mơ ước có một ngôi nhà với một mảnh vườn nhỏ ở một vùng ngoại ô yên tĩnh, chẳng hạn ở Maadi hay Helwan. Nhận thấy chồng của nàng hàng ngày phải mất nhiều thì giờ đi đến sở làm tại trung tâm thành phố, nàng đã chọn căn hộ này cũng vì chung quanh có quang cảnh thoáng đãng. Thế nhưng, cứ mỗi năm thì những toà nhà chung quanh lại càng mọc cao thêm, dần dần thu hẹp quang cảnh nhìn từ căn hộ của nàng. Rồi sẽ đến lúc ngọn tháp đơn độc ấy sẽ bị che khuất bởi những toà nhà mới.

Biết rằng giờ cầu nguyện vào buổi chiều tà đang đến gần, nàng rời ban-công và đi vào bếp để pha cà-phê cho chồng. Nàng đổ nước vào chiếc ấm kanaka [4] và bỏ thêm một muỗng cà-phê cùng một muỗng đường. Lúc nó sắp sôi bùng, nàng đem nó ra khỏi lò và đặt nó lên cái khay cùng với một cái tách, vì hắn thích nhìn thấy cà-phê rót ra trước mặt hắn. Nàng tưởng hắn đã ngồi dậy trên giường và đang hút thuốc lá, nhưng hình dáng co quắp lạ lùng của thân thể hắn lập tức cho nàng biết có điều gì bất thường. Nàng bước đến gần giường và nhìn vào cặp mắt hắn đang ngó trao tráo vào khoảng không, và đột nhiên nàng nhận ra mùi tử khí trong buồng ngủ. Nàng bước ra và đặt cái khay trong phòng sinh hoạt trước khi bước vào phòng của đứa con trai của nàng. Nó ngước lên nhìn nàng và lập tức tắt máy radio, đứng dậy:

“Có chuyện gì thế, mẹ?”

“Bố của con...”

“Bố lại bị nhồi máu cơ tim lần nữa sao?”

Nàng gật đầu. “Con hãy đi xuống nhà hàng xóm và gọi bác sĩ Ramzi. Bảo ông ấy đến ngay lập tức.”

Nàng bước trở lại phòng sinh hoạt và rót cho chính mình một tách cà-phê. Nàng ngạc nhiên thấy mình sao mà bình thản đến thế.

 

_________________________

Chú thích của người dịch:

[1]Bidet: một loại chậu để phụ nữ làm vệ sinh hạ thể.

[2]Trước khi cầu nguyện, người Hồi giáo phải thanh tẩy thể xác theo đúng nghi thức [wudu].

[3]Rak’a: một đợt cầu nguyện. Mỗi buổi cầu nguyện có ít nhất 2 “rak’a”. Mỗi ngày, người Muslim cầu nguyện cùng Allah năm buổi. Mỗi buổi cầu nguyện, họ phải thanh tẩy cơ thể [wudu] và thực hiện những điều như sau (bằng tiếng Ả-rập): 1/ Đứng thẳng, giơ hai tay lên, nói “Allahu Akbar” (“Thượng đế là vĩ đại tột bậc”). 2/ Khoanh hai tay trước ngực, tụng chương đầu của kinh Qur’an, rồi tụng bất kỳ bài văn nào chọn ra từ kinh Qur’an. 3/ Đứng thẳng, giơ hai tay lên, nói “Allahu Akbar”, rồi cúi mặt xuống, xướng ba lần “Subhana rabbiyal adheem” (“Vinh danh Chúa Trời Toàn Năng”). 4/ Đứng dậy, xướng “Sam’i Allahu liman hamidah; Rabbana wa lakal hamd” (“Chúa Trời nghe kẻ cầu xin Ngài; Xin ngợi ca Ngài”). 5/ Giơ hai tay lên, nói “Allahu Akbar”, rồi phủ phục, úp mặt xuống đất, xướng ba lần “Subhana Rabbiyal A’ala” (“Vinh danh Chúa Trời Cao Cả Tột Bậc”). 6/ Quỳ gối, nói “Allahu Akbar”, rồi phủ phục, úp mặt xuống đất. 7/ Đứng dậy, nói “Allahu Akbar”. Đến đây thì hết một “rak’a” (một đợt cầu nguyện). Thực hành “rak’a” thứ nhì bằng cách lặp lại từ bước thứ 2 cho đến bước thứ 6. 8/ Ở “rak’a” thứ nhì, sau bước thứ 6, quỳ gối, và xướng phần đầu tiên của Tashahhud. Nếu buổi cầu nguyện dài hơn hai “rak’a”, người cầu nguyện đứng lên và bắt đầu lại từ bước thứ 1 cho đến cuối cùng, rồi quỳ gối và xướng phần thứ nhì của Tashahhud. [Tashahhud là lời cầu nguyện mà mỗi tín đồ Hồi giáo phải xướng lên đúng từng chữ khi đang quỳ gối, hướng mặt về Mecca]. 9/ Sau đó, xoay sang bên phải và nói “Assalamu alaikum wa rahmatullah” (“Cầu cho bạn được an lành và được Chúa Trời ban phước”). 10/ Xoay sang bên trái và nói “Assalamu alaikum wa rahmatullah”.

[4]Kanaka: một loại ấm pha cà-phê ở Trung Đông.

 

--------------------
Dịch từ bản tiếng Anh, “Distant View of a Minaret”, trong Alifa Rifaat, Distant View of a Minaret And Other Stories [1983] trans. Denys Johnson-Davies (Portsmouth, NH: Heinemann, 1985 [ấn bản thứ hai])
 

 


Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021