thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Món ăn thượng hạng

 

Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn,
riêng tặng các em gái và em dâu của tôi, những người thích nấu ăn.

 

AMPARO DÁVILA

(1928~)

 

Amparo Dávila sinh tại México năm 1928. Bà nổi danh như một nhà thơ đầy tính độc sáng trong những năm 50 với ba thi tập Salmos bajo la luna (1950), Meditaciones a la orilla del sueño (1954), và Perfil de soledades (1954). Sau đó, bà lần lượt cho ra đời những tập truyện ngắn khiến giới phê bình đặc biệt chú ý: Tiempo destrozado (1959), Música concreta (1964), Árboles Petrificados (1977), và Muerte en el bosque (1985). Một số nhà phê bình cho rằng truyện ngắn của Amparo Dávila chịu ảnh hưởng từ Edgar Allan Poe, Frank Kafka và những nhà văn Mỹ-Latinh khác như Jorge Luis Borges, Juan José Arreola và Julio Cortázar. Một số nhà phê bình khác lại nhận định rằng tuy Amparo Dávila không tránh khỏi những ảnh hưởng ấy, bà vẫn có giọng văn rất riêng biệt: một giọng văn đến trực tiếp từ cảm tính và khả năng tưởng tượng dị thường. Không ma quái, huyễn hoặc, thần kỳ, khoái hoạt hay mang tính triết lý thần bí như của những nhà văn kể trên, trí tưởng tượng của Amparo Dávila mang tính ám ảnh về những đau đớn thầm kín, bất khả lý giải, bất khả diễn đạt, trong đời sống con người. Tôi đồng ý với nhận định này, và xin giới thiệu truyện ngắn dưới đây, trích từ cuốn Muerte en el bosque, như một ví dụ xác đáng.

 

_____________

 

MÓN ĂN THƯỢNG HẠNG

 

Khi tôi nghe mưa vỗ vào cửa sổ, những tiếng gào của chúng lại trở về với tôi. Những tiếng gào ấy cứ bám vào da tôi như những con đỉa. Cao độ của những tiếng gào tăng dần lên như cái ấm nước càng lúc càng nóng và nước bắt đầu sôi. Và tôi còn thấy cả những đôi mắt của chúng, nhỏ xíu, đen bóng như những hạt cườm, trồi ra khỏi hốc mắt khi chúng bị nấu chín.

Chúng sinh ra trong mùa mưa, trong vườn rau. Chúng nấp giữa những chiếc lá, bám vào cuống lá, hay lẩn dưới cỏ ướt. Từ những nơi ấy chúng bị người ta bứt ra đem bán, với giá đắt. Thường thì ba con giá năm centavo và, khi được mùa, thì mười lăm centavo một tá.

Gia đình tôi mỗi tuần bỏ ra chừng hai peso để mua, vì đó là món ăn cố định cho mỗi Chủ Nhật, và còn mua nhiều hơn nữa, nếu nhà có khách. Gia đình tôi chỉ nấu món này để đãi những vị khách đặc biệt hay rất thân tình. "Chẳng nơi nào người ta chuẩn bị chu đáo như vầy," mẹ tôi thường nói, hết sức tự hào, mỗi khi được khen về tài nấu nướng.

Tôi còn nhớ căn bếp tối tăm và cái nồi để nấu chúng, một cái nồi được một bà đầu bếp già người Pháp chùi rửa rồi lại làm cho ám khói; chiếc thìa gỗ sậm màu sau nhiều năm bị sử dụng, và người đầu bếp, một người đàn bà mập mạp, tàn nhẫn, hoàn toàn vô cảm trước cảnh đau đớn. Những tiếng kêu thét xé lòng ấy chẳng ảnh hưởng gì đến bà; bà cứ tiếp tục quạt lò, thổi cho than hừng lên, như chẳng có gì xảy ra. Từ căn phòng của tôi trên gác xép, tôi có thể nghe chúng kêu thét. Trời luôn luôn có mưa. Những tiếng kêu thét của chúng hoà vào tiếng mưa. Chúng không chết ngay. Nỗi đau đớn của chúng dường như kéo dài không bao giờ dứt. Trong cả thời gian đó tôi chui vào phòng, khoá chặt cửa, giấu đầu dưới chiếc gối, nhưng ngay cả làm như thế tôi vẫn còn nghe chúng. Thức giấc vào lúc nửa đêm, tôi vẫn còn nghe chúng. Tôi không bao giờ biết chúng còn sống hay đã chết rồi, và phải chăng những tiếng kêu thét của chúng đã ở lại trong tôi, trong đầu tôi, trong hai tai tôi, bên ngoài và bên trong, đánh cho tôi chết mòn, xé tôi nát từng mảnh.

Đôi khi tôi thấy hàng trăm con mắt nhỏ bé dán sát vào cánh cửa sổ rỉ nước. Hàng trăm con mắt đen và tròn. Những con mắt lấp lánh, ướt đầm nước mắt, cầu xin một chút lòng nhân từ. Nhưng trong nhà tôi không có lòng nhân từ. Không ai xúc động trước cảnh tàn nhẫn đó. Những con mắt và những tiếng kêu gào của chúng đã theo đuổi tôi, và vẫn còn theo đuổi tôi dù tôi đi đến bất cứ nơi nào.

Có đôi lần tôi bị sai đi mua chúng; lần nào tôi cũng về tay không, thế thốt rằng tôi không thấy người ta bán chúng ở đâu cả. Rồi một hôm họ bắt đầu nghi ngờ tôi, và họ không bao giờ sai tôi đi mua nữa. Bà đầu bếp tự đi mua lấy. Bà trở về với một thùng đầy, và tôi nhìn bà bằng con mắt ghê tởm như người ta nhìn tên đao phủ tàn ác nhất. Bà nheo cái mũi hếch, khụt khịt một cách kiêu hãnh.

Nấu chúng thành món ăn mới thật là một công việc hết sức phức tạp và mất thì giờ. Trước hết, bà đặt chúng vào một cái hộp có trải cỏ, cho chúng ăn một thứ lá thuốc hiếm — chúng có vẻ thích ăn — và thứ lá này có tác dụng như thuốc xổ. Chúng sẽ ở trong hộp ấy một ngày. Sáng hôm sau, bà sẽ rửa chúng một cách cẩn thận để khỏi làm trầy da chúng, rồi bà phơi cho chúng ráo, và đặt chúng vào trong một nồi đựng đầy nước lạnh, lá thơm và gia vị, giấm và muối.

Khi nước bắt đầu nóng thì chúng bắt đầu kêu, gào, thét... Chúng ré lên như những đứa bé mới lọt lòng, như những con chuột bị giậm bẹp, như những con dơi, như những con mèo con bị vặn cổ, như những người đàn bà điên loạn.

Lần ấy, lần cuối cùng trước khi tôi bỏ nhà ra đi, bữa tiệc kéo dài và rất mực thịnh soạn.

 

---------
Dịch từ nguyên tác tiếng Tây-ban-nha: "Alta cocina", trong Amparo Dávilla, Muerte en el bosque (México, D.F.: Fondo de Cultura Económica -- Primera edición en Lecturas Mexicanas, 1985).
 

 


Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021