thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Mưa | Năm người
Bản dịch Hoàng Ngọc Biên
 
 
ZBIGNIEW HERBERT
(1924-1998)
 

Mưa

 
Khi anh tôi
từ chiến trường trở về
anh có một ngôi sao bạc nhỏ trước trán
và dưới ngôi sao
là một vực thẳm
 
đấy là một vết mảnh đạn
ghim vào anh ở trận Verdun
hay có thể là ở trận Grünwald
(anh quên mất chi tiết)
 
ngày xưa anh nói nhiều
nói đủ mọi thứ ngôn ngữ
nhưng anh thích hơn cả
là ngôn ngữ lịch sử
 
anh hò hét đến hết hơi
chỉ huy các đồng ngũ đã ngã gục đứng lên
Roland Kowalski Hannibal
 
anh la lớn
rằng đây là chiến dịch cuối cùng
rằng Carthage sắp sụp đổ
rồi nức nở thú nhận
là Napoleon không thích anh
 
chúng tôi nhìn anh
ngày một xanh xao
mất dần những cảm giác
anh từ từ trở thành tượng đài
 
một rừng đá lan vào
những xoăn tai anh
rồi da trên mặt anh
khép chặt lại
với hai con mắt
mù và khô
 
anh không còn lại gì
ngoài xúc giác
 
những câu chuyện khó tin
anh kể với đôi bàn tay
tay bên phải anh có những truyện tình
tay bên trái là những kỷ niệm người lính
 
chúng nắm tay anh tôi
chúng đưa anh ra khỏi thành phố
giờ đây cứ mỗi mùa thu anh trở về
người gầy gò và lặng thinh
(anh không muốn vào nhà)
anh chỉ gõ cửa sổ để gọi tôi ra
 
chúng tôi cùng bước đi trên đường phố
và anh kể tôi nghe
những chuyện không có thật
và sờ lên mặt tôi
với những ngón tay mù đẫm mưa
 
 
 

Năm người

 
1
 
Buổi sáng chúng dẫn họ ra
chỗ sân lát đá
và bắt họ đứng sát vào tường
 
năm người
hai trong bọn còn rất trẻ
những người khác ở tuổi trung niên
 
không có gì hơn
để nói về họ
 
 
2
 
khi trung đội
đưa súng lên nhắm
mọi thứ đột nhiên hiện ra
trong thứ ánh sáng chói rực
của sự hiển nhiên
 
bức tường vàng
bầu trời lạnh
dây kẽm đen trên tường
thay vì một chân trời
 
đó là lúc
khi năm giác quan nổi loạn
họ có thể vui vẻ trốn thoát
như những con chuột ra khỏi một chiếc tàu đang chìm
 
trước khi viên đạn bay đến đích
mắt sẽ nhận thức được đường bay của đạn bắn ra
tai sẽ ghi nhận một tiếng rít của thép
rốn sẽ được lấp bằng khói buốt
một vết máu hình cánh hoa sẽ vẽ lên vành miệng
cái chạm sẽ thắt lại và rồi giãn ra
 
bây giờ họ nằm trên đất
bóng mát phủ đến tận mắt
trung đội bỏ đi
những cái nút đai da
và nón sắt của chúng
sinh động hơn
cả những người đang nằm cạnh bức tường
 
 
3
 
việc ấy tôi không phải hôm nay mới biết được
tôi biết từ ngày hôm kia
 
thế thì tại sao tôi vẫn cứ viết
những bài thơ không quan trọng về hoa
 
năm người đã nói gì
đêm trước cuộc hành quyết
 
về những giấc mơ tiên tri
về một cuộc tháo chạy trốn vào một nhà chứa
về những bộ phận xe hơi
về một cuộc du lịch trên biển
về chuyện như thế nào khi hắn có cái thuổng
hắn lẽ ra không nên mở
về chuyện như thế nào uống vodka là tốt nhất
sau khi uống rượu vang và bị nhức đầu
về các cô gái
về trái cây
về đời sống
 
vì thế ta có thể dùng trong thơ
tên của những người chăn cừu Hy Lạp
ta có thể cố bắt cho được màu bầu trời buổi sáng
viết về tình yêu
và còn
một lần nữa
một cách cực kỳ nghiêm chỉnh
tặng cho thế giới bị phản bội
một hoa hồng
 
 
-----------------
“Mưa” / “The Rain” trong Postwar Polish Poetry – New, Expanded Edition, do Czeslaw Milosz tuyển chọn và biên tập (University of California Press, 1983); “Năm người” trích từ Thơ mới Ba Lan, Hoàng Ngọc Biên dịch và giới thiệu, 160 trang, (Nhà xuất bản Trình bầy, 1993).
 
 
----------
Những tác phẩm khác của Zbigniew Herbert đã đăng trên Tiền Vệ:
 
Ngày xưa có một vị Hoàng Đế. Ngài có cặp mắt vàng và một cái miệng ăn thịt người. Ngài sống trong một cung điện đầy tượng điêu khắc và cảnh sát. Sống một mình. Ban đêm ngài thức giấc và la hét. Không ai yêu thương ngài cả. Ngài thích trò chó săn người và khủng bố hơn tất cả mọi thứ. Khi ngài chết không ai dám dẹp bỏ chân dung ngài. Hãy nhìn mà xem, có thể anh vẫn còn có một cái mặt nạ của ngài trong nhà đấy... — Sáu bài thơ văn xuôi của Zbigniew Herbert (1924-1998). [Bản dịch Hoàng Ngọc Biên]
 
19 bài thơ từ Tường thuật từ thành phố bị vây hãm — tập thơ thứ sáu của Zbigniew Herbert (1924-1998) — tác phẩm được xem là “chấn động của thập niên” trong thi ca Ba Lan. [Bản dịch của Lê Ðình Nhất-Lang]
 
Quá già để mang súng và chiến đấu như những người khác— / họ rộng lượng giao cho tôi vai trò thấp hèn của một người chép sử biên niên / tôi ghi lại—chẳng biết cho ai—lịch sử của cuộc vây hãm... | Chẳng cần chi nghị lực lớn / sự khước từ sự bất đồng và sự phản kháng của chúng ta / chúng ta có một ít can đảm cần thiết / nhưng căn bản đó là một vấn đề thẩm mỹ... [Bản dịch của Lê Đình Nhất-Lang]
 
Mười bài thơ  (thơ) 
Mười bài thơ của Zbigniew Herbert (1924-1998) — nhà thơ Ba-lan được biết tới nhiều hơn cả trên thế giới. Nhà thơ Czesław Miłosz nhận định: "Nếu kinh nghiệm đặc thù của những thập niên vừa qua là chiếc chìa khoá mở cửa vào thi ca Ba-lan đương đại, thì Herbert có lẽ là người tài ba nhất để diễn tả kinh nghiệm ấy..." [Bản dịch Diễm Châu]
 
Bài thơ của Zbigniew Herbert (1924-1998) — một nhà thơ Ba-lan được biết tới nhiều hơn cả trên thế giới — qua bản dịch của nhà thơ Diễm Châu. Theo Jacques Burko, «bài này chính yếu gợi lại những quan hệ của một người chống đối chế độ với những người bạn thời trẻ, trong đó có một số thỏa hiệp với quyền bính và những người khác ra đi sống cảnh lưu đày.»
 
Hãy đi về nơi những kẻ khác đã đi về giới ranh đen tối / vì tấm lông cừu bay bổng của hư không phần thưởng chót của ngươi / hãy đứng thẳng dậy và đi giữa những kẻ quỳ gối / giữa những kẻ quay lưng và những kẻ sụp đổ trong cát bụi... | Có những người trồng / những khu vườn trong đầu mình... | Đá cuội / là một tạo vật hoàn hảo... [Bản dịch Diễm Châu]
 
Ở thiên đường tuần làm việc có ba mươi giờ / Lương tháng cao hơn và giá cả bao giở cũng hạ... [Bản dịch Diễm Châu]
 

Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021