thơ | truyện / tuỳ bút | phỏng vấn | tiểu thuyết | tiểu luận / nhận định | thư toà soạn | tư tưởng | kịch bản văn học | ý kiến độc giả | sổ tay | thảo luận | ký sự / tường thuật | tư liệu / biên khảo | thông báo |
văn học
Chiến tranh | Người tân thời | Nhà phê bình | Đất
Bản dịch của Lê Đình Nhất-Lang
 
 
C. K. WILLIAMS
(1936~)
 
C. K. Williams sinh năm 1936 tại thành phố Newark, tiểu bang New Jersey, Hoa Kỳ. Ông là tác giả của khoảng mười thi tập, trong đó, Flesh and Blood (1987) được giải National Book Critics Circle Award, Repair (1999) được giải Pulitzer, và The Singing (2003) được giải National Book Award.
 
Williams cũng đã xuất bản 5 dịch phẩm, trong đó có tập Canvas, thơ Adam Zagajewski (cùng với Renata Gorczynski và Benjamin Ivry, 1991); và The Lark. The Thrush. The Starling. (Poems from Issa) (một tập thơ dịch và sáng tác ngẫu hứng xuất phát từ những bài haiku của Issa, nhà thơ Nhật Bản).
 
Ông hiện dạy trong chương trình viết sáng tạo ở Ðại Học Princeton và mỗi năm đều sống một thời gian ở Paris.
 
 

Chiến tranh

 
Jed hổn hển ngất ngây sung sướng vì nó vừa bị phục kích
      và bắn ngã một cách khéo léo
bởi bạn nó Ha Woei khi nó nhào đầu tới tấn công qua khúc quanh
      sau bụi rậm trong rừng.
Nó quỵ xuống đất cái bịch, không kể chi tới đám đất cát dơ dáy,
      đen thui, ẩm ướt mà nó ngã vào,
và cố giữ tư thế của một người chết, trán xuống đất, tay và chân
      dang hết cỡ đông tây,
rồi tới lượt nó dậy và Ha Woei chết, khi đó Ha Woei với
      cả sức lực và buông bỏ,
tự quăng mình xuống, cây súng tưởng tượng trong tay văng lên kiểu
      người lính Tây Ban Nha của Capa.
Giờ ăn, giờ tắm, giờ ngủ, giờ đọc truyện: bèm, bèm bèm bèm, bèm—
      Akhileus và Hektor.
Mãi tới khi màn đêm buông xuống chúng mới chịu tuân theo các
      hiệp định ngưng bắn và sự thứ tha của giấc ngủ.
 
 

Người tân thời

 
Da dai và không thể gập y như sẹo, thịt lỏng lẻo, loãng, có hạt,
      bồn bột, rỗng,
trái cà chua tôi đang ăn–ngấu nghiến, nhồi nhét vào: tôi đói quá–quả
      là kinh tởm và ngon.
Ðừng kể, tôi biết cả rồi, trò giả bộ vụng về này; tôi biết nó đã bị hái xuống
      chưa chín và xanh rờn,
rồi bị khoá kín trong buồng và xịt hơi ga để nó đừng thối cho tới khi tôi mua
      về nhưng tôi không cần biết:
tôi đã từng đói xưa kia, tôi đang liếm mồ hôi trên cánh tay và giờ đây trái
      cà chua đang phát sáng trong tôi.
Tôi dồn nước ngọt qua răng và những cái hạt lên vòm miệng tôi
      và cái vảy
cứng, sần sùi nơi trái gặp cuống và bị bứt rời tôi giữ lại trên
      lưỡi và nhấm nháp,
một đồng tiền, một cái chấm, cái chỗ cuối câu, cái kết thúc của phát biểu
      dài viển vông của tính linh thiêng và người.
 
 

Nhà phê bình

 
Trong Thư Viện Công Cộng Boston ở đường Boylston, nơi cả bọn bụi đời
      ghé vào hôi hám vì lạnh,
có gã nọ mang cuốn tập giấy rời nát bấy thường dùng để viết hí hoáy
      hàng giờ liền.
Gã viết không chút ngập ngừng, nhanh thoăn thoắt, và chú tâm;
      cảm hứng của gã thật hào hứng:
bạn phải nhìn lại mới vỡ lẽ gã viết lên trên những chữ đã
      nằm sẵn đó ố
những khối chữ tròn đều khắc sâu xuống giấy đã bị mềm, chen lẫn những bài
      thơ in gã dán vào.
Tôi chịu không nổi khi nghĩ đến những cuốn sách gã xâm phạm để dựng nên
      đại tác phẩm, nhưng dù sao tôi cũng thích gã,
nhất là cách gã vẫn thường đi đến kết thúc, đóng tập lại với vẻ thỏa mãn
      mệt mỏi, rồi lại mở ra
và lại bắt đầu: trang một, chương một, cặp mắt đỏ sọng vành mê say như
      David với thánh vịnh trong tay.
 
 

Ðất

 
Bà tôi đang rửa miệng tôi
cho sạch bằng xà bông; nửa thế kỷ dài đã qua
mà bà vẫn còn tấn công tôi
bằng cái thanh màu vàng, thô bạo, dày cộm đó.
Tất cả chỉ vì một từ tôi nói,
thực ra cũng chẳng nói, mà chỉ lặp lại,
nhưng Mở, bà nói, mở ra!
bàn tay bà quặp lấy đầu tôi.
 
Tôi biết giờ đây cuộc sống bà khó nhọc;
bà đã mất ba con gái đều còn bé,
rồi chồng bà cũng đi luôn,
để lại bọn con trai, và không một xu.
Bà cho tôi đứng trong bồn rửa chén để đái
vì chẳng bao giờ có chỗ trong cầu tiêu.
Nhưng, ôi, cục xà bông! Không lẽ sự nung nấu cay đắng
của nó chính là cái đã biến tôi thành một nhà thơ?
Con đường nơi bà ở không trải nhựa,
hai phòng thấp chật và một căn bếp
hôi hám nơi bà rượt và tóm được tôi.
Tôi có dám nhận rằng sau khi bà làm điều đó
tôi không bao giờ thương bà nữa chăng?
Dầu vậy, bà sống tới trăm tuổi.
Bao lâu nay chỉ nỗi buồn, nỗi khổ,
nhưng tôi chưa bao giờ, thương bà trở lại, cho tới bây giờ.
 
 
----------
Nguồn: Nguyên tác tiếng Anh các bài “War,” “The Modern,” và “The Critic,” trong Flesh and Blood (New York: Farrar, Straus and Giroux, 1987); và “Dirt” trong Repair (New York: Farrar, Straus and Giroux, 1999)
 

Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021