|
Những việc làm tuyệt diệu
|
|
Bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn
JULIO CORTÁZAR (1914-1984)
Julio Cortázar — tiểu thuyết gia, thi sĩ, phê bình gia, nhà viết truyện ngắn, và nhạc sĩ — sinh tại Brussels, nước Bỉ, năm 1914. Song thân là người Á-căn-đình. Sau Thế Chiến thứ Nhất, gia đình ông hồi hương, và ông lớn lên tại Á-căn-đình. Cortázar tốt nghiệp đại học sư phạm văn chương tại Buenos Aires vào năm 1935. Từ 1935 đến 1945, ông dạy học tại nhiều trường trung học khác nhau, và từ 1945 đến 1951, ông làm dịch giả cho một số nhà xuất bản. Trong thời gian đó, ông dịch trọn vẹn tác phẩm văn xuôi của Edgar Allan Poe, và nhiều tác phẩm của André Gide, Walter de la Mare, G.K. Chesterton, Daniel Defoe, và Jean Giono. Viện Đại Học Buenos Aires mời ông vào chức vụ Giáo Sư văn chương, nhưng ông từ chối vì chống lại chế độ độc tài Perón. Năm 1951, ông di cư sang Pháp và sống ở đó cho đến khi lìa đời vào năm 1984.
Năm 1981, tổng thống Mitterand trao tặng quốc tịch Pháp cho Julio Cortázar, và ông nhận vinh dự này, nhưng nhất quyết không từ bỏ quốc tịch Á-căn-đình. Song song với sự nghiệp văn chương, Cortázar còn là một nhà vận động chính trị. Ông viếng Cuba năm 1961 và Nicaragua năm 1983. Tiểu thuyết Libro de Manuel (1973) của ông đoạt giải văn học Prix Médicis năm 1974 và ông trao tặng tất cả tiền thưởng cho Mặt Trận Thống Nhất Chi-lê.
Trong hơn 30 năm sống ở Pháp, mỗi năm ông dành bốn tháng để làm việc như một dịch giả cho UNESCO (dịch từ tiếng Pháp và Anh sang tiếng Tây-ban-nha), và tám tháng còn lại để viết văn, làm thơ và chơi nhạc (ông còn là một nhạc sĩ jazz, chuyên chơi kèn trumpet!).
Julio Cortázar bắt đầu làm thơ và viết kịch bản từ những năm 1930, nhưng bắt đầu nổi tiếng vào năm 1951 với tập truyện ngắn Bestiario. Năm 1963, tiểu thuyết Rayuela đưa ông vào địa vị hàng đầu trong văn đàn quốc tế. Số lượng tác phẩm ông đã xuất bản hết sức đồ sộ, trong đó có những cuốn lẫy lừng như Final de juego (1956), Las armas secretas (1959), Los premios (1960), Historias de cronopios y famas (1962), Todos los fuegos el fuego (1966), La vuelta al día en ochenta mundos (1967), Último round (1968), 62/ Modelo para armar (1968), Libro de Manuel (1973), Octaedro (1974), Alguien que anda por ahí (1977), Un tal Lucas (1979), Queremos tanto a Glenda (1980), Deshoras (1982), vân vân.
Ông đoạt rất nhiều giải thưởng quan trọng, trong đó có "Prix Médicis" (như đã nêu trên) và "Orden de la Independencia Cultural Rubén Darío" (1984) — chính nhà thơ Ernesto Cardinal (1925~), khi ấy đang là Bộ trưởng Văn Hoá của Nicaragua, đã tận tay trao giải thưởng này cho Julio Cortázar.
Pablo Neruda — nhà thơ Chi-lê đoạt giải Nobel Văn Chương 1971 — có lần nói: "Người nào chưa từng đọc Cortázar, người ấy là kẻ mắc đoạ".
___________________
NHỮNG VIỆC LÀM TUYỆT DIỆU
Thật là một việc làm tuyệt diệu — cắt cái chân của một con nhện, đặt nó vào một bì thư, viết Gửi Ông Bộ Trưởng Ngoại Giao, ghi thêm địa chỉ, lao xuống thang lầu, và bỏ bì thư vào hộp thư ở góc đường. Thật là một việc làm tuyệt diệu — rảo bước theo đại lộ Arago, đếm những thân cây, và cứ mỗi lần đếm được năm cây hạt dẻ thì đứng lại chốc lát trên một chân, và đợi đến khi có người nào đó nhìn mình thì gào lên một tiếng ngắn, khô khốc, và xoay mòng mòng như con vụ, hai cánh tay dang ra giống hệt như con chim cakuy kêu thảm thiết trong những lùm cây ở miền bắc Á-căn-đình. Thật là một việc làm tuyệt diệu — bước vào một quán cà-phê và xin người ta cho thêm đường, rồi lại thêm đường, ba hay bốn lần thêm đường, rồi chăm chỉ xây một hòn núi đường ngay giữa bàn, mặc cho cơn bực bội đang dâng lên dọc theo quầy hàng và dưới những tấm tạp-dề trắng, rồi nhẹ nhàng nhổ một bãi nước miếng ngay chính giữa đống đường ấy, và ngắm nghía dòng sông tuyết nhỏ bé của bãi nước miếng đang chảy xuống, lắng nghe tiếng gào ầm ĩ của những tảng đá vỡ cùng lúc ấy phát ra từ những cổ họng co giật của năm người khách thường vãng lai và ông chủ quán, một kẻ chỉ thành thật vào những khi nổi hứng. Thật là một việc làm tuyệt diệu — theo một chuyến xe buýt, đáp xuống trước dinh ông Bộ Trưởng, nhanh nhẹn lách qua cổng bằng cách chìa ra một bì thư đóng đầy những con dấu, lướt qua người thư ký cuối cùng, rồi ra bộ nghiêm trọng và không một chút nao núng bước thẳng vào cái văn phòng đồ sộ có gắn đầy những tấm gương soi, đúng ngay vào lúc một người gác cửa trong bộ đồng phục xanh đang trao một bức thư cho ông Bộ Trưởng, rồi ngắm ông ấy mở bì thư bằng một con dao rọc đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, ngắm ông ấy luồn hai ngón tay thanh lịch vào bì thư nhặt ra một cái chân nhện và ngẩn người nhìn nó, rồi bắt chước kêu vo ve như một con ruồi và ngắm ông Bộ Trưởng đang tái nhợt người muốn vất cái chân nhện mà không vất được vì đã bị nó làm cho điếng hồn, rồi xoay người lại và bước ra, miệng huýt gió, loan tin dọc theo cả dãy hành lang rằng ông Bộ Trưởng đang từ chức, rồi dự tưởng rằng ngày mai địch quân sẽ tiến vào và mọi sự sẽ tan tành theo nhà ma cửa quỷ, và đó sẽ là một ngày thứ Năm của một tháng mang số lẻ trong một năm nhuần.
-----------------------
Dịch từ nguyên tác tiếng Tây-ban-nha: "Maravillosas ocupaciones", trong Historias de cronopios y de famas [1962] (Madrid: Ediciones Punto de Lectura, 2004).
Những tác phẩm khác của Julio Cortázar qua bản dịch của Hoàng Ngọc-Tuấn:
Lời nói đầu cho những hướng dẫn về cách lên dây thiều chiếc đồng hồ đeo tay | Những hướng dẫn về cách lên dây thiều chiếc đồng hồ đeo tay (truyện / tuỳ bút)
Hãy suy nghĩ về điều này: Khi người ta tặng bạn một chiếc đồng hồ đeo tay, họ đang tặng bạn một cái địa ngục nhỏ bé đang trổ bông... | Tử thần đang đứng thấp thoáng phía sau, nhưng đừng sợ. Hãy cầm chiếc đồng hồ trong một bàn tay, rồi dùng hai ngón tay nắm lấy chốt lên dây thiều, và vặn nó một cách nhẹ nhàng... (...)
Những hướng dẫn về cách hát | Những hướng dẫn về cách khóc (truyện / tuỳ bút)
Trước hết hãy đập vỡ tất cả những tấm gương soi trong nhà, buông hai cánh tay xuôi thõng xuống bên hông, nhìn đăm đăm vào bức tường với đôi mắt trống rỗng... | Để khóc, hãy lái trí tưởng tượng về chính mình, và nếu điều này không khả thi vì đã lỡ mắc phải thói quen tin tưởng vào ngoại giới, thì... (...)
Cụt đầu (truyện / tuỳ bút)
Họ đã cắt đứt lìa cái đầu của người đàn ông này, nhưng vì lúc ấy có cuộc đình công của phu đào huyệt và họ không thể chôn y được, nên y phải tiếp tục sống không có đầu và cố gắng vận dụng hết khả năng mình... (...)
Những đường chỉ tay (truyện / tuỳ bút)
Từ một bức thư ném lên mặt bàn, một đường kẻ xuất hiện, chạy ngang tấm ván gỗ thông và leo xuống đất theo một trong những chân bàn. Hãy nhìn, bạn thấy đường kẻ tiếp tục chạy ngang qua sàn gỗ, trèo lên tường và tiến vào một bản in bức tranh sơn dầu của Boucher... (...)
Người tù (truyện / tuỳ bút)
... Giống như những côn trùng, những con chữ loanh quanh lui tới, càng lúc lại càng xanh xao và kiệt sức hơn. Trước hết, những liên từ sẽ chết... (...)
Câu chuyện không dạy đời (truyện / tuỳ bút)
"Tôi đến đây để bán cho ngài những lời trăn trối cuối cùng của ngài," người đàn ông nói với nhà độc tài. "Những lời trăn trối rất quan trọng, nhưng trong giây phút cuối cùng chúng sẽ không bao giờ tự nhiên bật ra đúng như ý ngài muốn, trái lại, ngài mua những lời này và ngài sẽ thốt chúng ra một cách thích nghi vào khoảnh khắc nghiêm trọng ấy để sau này hậu thế sẽ dễ dàng nhìn thấy ngài mang một định mệnh lịch sử" ... (...)
Những thảo viên nối liền (truyện / tuỳ bút)
... Ông nếm cái khoái lạc có vẻ khá kỳ quặc là vừa đọc từng hàng chữ vừa tự tách mình ra khỏi những sự vật chung quanh, và cùng lúc vẫn cảm thấy đầu mình đang tựa êm ả lên lớp nhung xanh lục của chiếc ghế... (...)
Về truyện ngắn và cực ngắn (tiểu luận / nhận định)
[...] tiểu thuyết thắng nhờ đánh kéo dài để lấy điểm kỹ thuật, còn truyện ngắn thì phải thắng nhờ cú đo ván... điều đáng kinh ngạc về những truyện chạy đua với đồng hồ là chúng tạo ra được một cú sét đánh từ một nhúm chất liệu tối thiểu. (...)
Mùa của bàn tay (truyện / tuỳ bút)
Lúc xế chiều tôi hẳn sẽ mở cánh cửa sổ thông ra khu vườn, chỉ hé một chút, và bàn tay ấy hẳn sẽ dịu dàng leo xuống góc bàn viết, lòng tay hiếm khi chạm vào đó, những ngón tay duỗi mềm và có vẻ như bối rối, cho đến khi nàng đến nghỉ ngơi trên chiếc dương cầm, giữa cái khung ảnh, hay đôi khi trên tấm thảm màu rượu chát. (...)
|