tin & thư | chuyên đề | tác phẩm mới | tác phẩm của tháng | đối thoại | tác giả | gửi bài | góp ý |
sinh hoạt
đối thoại
Trịnh Công Sơn xém làm Bộ trưởng Văn hóa  [đối thoại]

 

Một người bạn vừa gửi cho Người Sưu Tầm một bài viết của Nguyễn Đắc Xuân, bạn thân của Trịnh Công Sơn. Trong đó ông ta có kể lại một chuyện khá thú vị, cho thấy con người chính trị của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.

Trịnh Công Sơn nằm trong nhóm người tổ chức đảo chính Nguyễn Văn Thiệu. Nhóm này hành động theo kế hoạch của Nguyễn Hữu Đống. Nếu đảo chính thành công thì “sẽ đặt Trịnh Công Sơn làm Bộ trưởng Văn hóa”.

Đầu đuôi ra sao, mời độc giả đọc nguyên văn bài viết của Nguyễn Đắc Xuân dưới đây.

 

Tập nhạc Kinh Việt Nam (1970)

Trịnh Công Sơn sáng tác cho một kế hoạch đảo chính

vận động hòa bình

 

NGUYỄN ĐẮC XUÂN

 

(Tạp chí HỒN VIỆT Số 1 - Tháng 7/2007)

 

Có lẽ nhiều bạn đọc từng biết tập nhạc Kinh Việt Nam của Trịnh Công Sơn (Đinh Cường vẽ bìa, Bửu Chỉ minh hoạ, Nhân Bản xuất bản, 1970), từng đọc đoạn mở đầu do Trịnh Công Sơn viết năm 1968: “là những tiếng kêu thương thống thiết, khởi từ một thực trạng máu xương. Kinh Việt Nam cũng là lòng mơ ước về một rạng đông cho đêm tối dài lâu này. Những bài ca được viết từ những hân hoan lắng nghe được trong lòng người. Đó là nỗi hân hoan của đám đông chờ mong ngày hồi sinh”. Nhưng có thể nói cho đến nay ít người biết trong trường hợp nào Trịnh Công Sơn đã sáng tác tập nhạc với lời mở đầu súc tích như thế.

 

1. Cái tên Kinh Việt Nam hình thành ở Quán Văn

Từ sau khi Trịnh Công Sơn cho trình bày Ca Khúc Da Vàng qua tiếng hát Khánh Ly, đặc biệt là sau vụ chính quyền Sài Gòn đàn áp đẫm máu Phong trào tranh đấu miền Trung (6/1966), Quán Văn và Hội Hoạ sĩ trẻ Đại học Văn Khoa Sài Gòn trở thành nơi gặp gỡ, sinh hoạt văn hoá, nơi ẩn trú của thanh niên sinh viên tranh đấu và yêu nhạc Trịnh. Đây cũng là nơi “trốn lính” của Trịnh Công Sơn. KTS Nguyễn Hữu Đống – nhân vật dân sự độc nhất có mặt trong “Hội đồng Quân nhân Cách mạng” lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm ngày 1/11/1963. Chủ nhiệm báo Việt Chiến kiêm Giám đốc Nhà xuất bản Việt Chiến cũng thường đến Quán Văn chơi với Trịnh Công Sơn và qua giọng Huế đồng hương, họ hay bàn chuyện sáng tác văn nghệ đấu tranh cho hoà bình Việt Nam. Đống làm báo, có nhiều kênh quan hệ với tình báo, biết rõ chủ trương làm chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, anh rất đau lòng trước cảnh người Việt Nam bị bắt lính, bị bắt cầm súng của ngoại bang để bắn vào đầu anh em. Tất cả những nhân danh này nọ đều là bịa đặt, ngu dốt.

Một đêm trước Noel 1967, anh em văn nghệ ở Quán Văn kéo nhau đi xem phim Mười Điều Giáo Lệnh Của Moise (Les Dix Commandements de Moise). Riêng Trịnh Công Sơn không dám đi vì đang bị lùng bắt. Ở Quán, Trịnh có dịp tâm sự riêng với người bạn KTS-nhà báo. Ngồi trên cái nền xi-măng vốn là nền Khám Lớn, họ nghĩ mình đang ngồi trên cái nền từng để cái máy chém của thực dân Pháp hồn thiêng sông núi đang quanh quẩn đâu đây. Nhân bình luận về Mười Điều Giáo Lệnh, tức nhắc đến các mệnh lệnh đạo đức và tôn giáo, theo Kinh Thánh, được phán truyền cho Moise ở Mont Sinai và được khắc vào hai phiến đá (Mười Điều Giáo Lệnh đóng vai trò quan trọng trong Do Thái giáo và Kitô giáo), Nguyễn Hữu Đống nảy ra một ý kiến mới và bảo Trịnh Công Sơn:

- “Toi đã làm được Ca Khúc Da Vàng, tại sao toi không làm một tập Giáo Lệnh Việt Nam – Kinh Việt Nam, để cho người Việt Nam nhớ đừng bao giờ còn ngu cầm súng ngoại bang để bắn vào đầu anh em, đồng bào mình nữa?”

Đề nghị bất ngờ nhưng hợp với tư tưởng hòa bình của Sơn nên anh sốt sắng nhận lời.

 

2. Tập nhạc phục vụ cuộc đảo chính vận động hoà bình

Mùa hè 1966, nếu chính quyền Sài Gòn không đàn áp được Phong trào tranh đấu cho hòa bình Việt Nam ở miền Trung, Tổng thống Mỹ Johnson có thể tính đến chuyện giao vấn đề Việt Nam cho người Việt Nam giải quyết. Sau Tết Mậu Thân (2/1968) Chính phủ Mỹ càng ngao ngán hơn nữa. Qua các nguồn tin mật phương Tây, Đống biết được trước sau gì Mỹ cũng bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Vì thế càng kéo dài chiến tranh, càng có nhiều thanh niên chết một cách vô ích, đất nước càng nát tan, hận thù càng bị đào sâu. Nguyễn Hữu Đống đã có kinh nghiệm làm đảo chính từ hồi 1963, nên sau Tết Mậu Thân, nhất là sau khi có chủ trương Việt Nam hóa chiến tranh, anh cùng nhiều chính khách cũng như tướng tá VNCH cùng chí hướng bí mật tổ chức một cuộc đảo chính để “cứu nước”. Được nhiều thế lực trong và ngoài nước ủng hộ, Đống nhờ “nhà báo” Đỗ Ngọc Yến tập họp tất cả các đoàn thể thanh niên ở Sài Gòn mà Yến có ảnh hưởng lúc ấy vào Đại Hội Thanh Niên Vì Tổ Quốc. Nguyễn Hữu Đống được bầu làm Tổng thư ký của Đại hội. Trong thời gian đó, tướng Trần Văn Đôn được Mỹ ủng hộ hình thành Mặt Trận Nhân Dân Cứu Nguy Dân Tộc. Qua trung gian “nhà báo” Đỗ Ngọc Yến, người Mỹ muốn tổ chức của Đống đặt dưới trướng của tướng Đôn. Nhưng Đống không đồng ý, anh lập kế hoạch đảo chính Nguyễn Văn Thiệu, sẽ mời TS nguyễn Văn Hảo (người miền Nam) sinh năm 1936 phụ trách kinh tế-xã hội, mời Bùi Thế Dung (sinh năm 1936, chồng của ca sĩ H.Th), đại tá Thiết Giáp, người miền Bắc, phụ trách quân sự, ngoại giao. Và Nguyễn Hữu Đống (người Huế, sinh năm 1937), phụ trách an ninh, báo chí-phát thanh. Sẽ đặt Trịnh Công Sơn làm Bộ trưởng Văn hóa. Theo kế hoạch, khi đảo chính thành công, công an và quân đội VNCH sẽ được đưa ra bên ngoài, các thành phố sẽ được giao lại cho thanh niên, học sinh, sinh viên giữ an ninh. Bộ Tư lệnh sẽ đặt ở suối Lồ Ồ - nơi trước đây Ngô Đình Nhu định xây dựng bản doanh của “Thanh Niên Cộng Hòa”. Tuổi trẻ đô thị sẽ đốt đuốc hát Kinh Việt Nam nối đuôi nhau từ thành phố ra ngoại ô rồi đi ngược lại. Dòng người trẻ cứ thế thực hiện từ Sài Gòn ra đến Bến Hải.

Đến khi cuộc đảo chính vận động hòa bình được ổn định, được thế giới chú ý, sẽ tuyên bố “Việt Nam Cộng Hòa bỏ súng”. Nếu có đơn vị quân đội nào không chấp hành, trở ngược lại đàn áp thanh niên thì một số thanh niên có thể chết vì khát vọng hòa bình còn hơn là chết ngoài mặt trận chống lại anh em của mình. Và, chắc chắn khi đó một số chính phủ nước ngoài ủng hộ cuộc đảo chính sẽ can thiệp và bảo vệ cuộc đảo chính vì hòa bình Việt Nam. Tất cả những cuộc họp bàn đảo chính kéo dài trong nhiều năm đều diễn ra bí mật nhưng luôn luôn được thông báo từng chi tiết với Trịnh Công Sơn. Đến sau khi Sơn xây được nhà riêng xong (1971?) thì các cuộc bàn ấy diễn ra ngay tại nhà anh.

 

3. Nỗi sốt ruột của Trịnh Công Sơn

Trịnh Công Sơn đã soạn xong Kinh Việt Nam. Nhưng kế hoạch đảo chính được chuẩn bị từ năm 1968, nhiều lần tưởng đã sắp nổ ra lại phải hủy bỏ. Tướng Nguyễn Văn Thiệu biết có một cuộc đảo chính đang rập rình quanh mình nên rất cảnh giác. Phương tiện, giờ giấc đi lại của tường Thiệu luôn thay đổi bất ngờ. Những người phục vụ chung quanh có dấu hiệu bất thường liền bị điều động đi nơi khác ngay. Trong các cuộc duyệt binh mừng “Ngày Quân Lực 19 tháng 6” hay mít-tinh kỷ niệm ngày “Người Cày Có Ruộng”, tướng Thiệu luôn cho kiểm tra nghiêm ngặt súng đạn và xăng dầu của các thiết giáp để đề phòng chuyện quân đội làm đảo chính. Nhờ thế mà Nguyễn Văn Thiệu đã vô hiệu hóa nhiều âm mưu ám sát ông. Kế hoạch đảo chính chờ đợi thực hiện tháng này qua tháng khác, làm cho Trịnh Công Sơn rất sốt ruột. Chưa đảo chính được thì Trịnh Công Sơn còn phải sống “bất hợp pháp”. Trịnh Công Sơn khao khát được tự do, anh diễn tả nỗi chờ mong ấy trong bài Chờ Nhìn Quê Hương Sáng Chói: “Nơi đây tôi chờ/ Nơi kia anh chờ/ Trong căn nhà nhỏ/ Mẹ cũng ngồi chờ/ Anh lính ngồi chờ/ Trên đồi hoang vu/ Người tù ngồi chờ/ Bóng tối mịt mù/ Chờ đã bao năm/ Chờ mai này ta dậy trong tiếng hò reo/ Chờ cho lòng căm thù đến lúc chìm sâu/ Chờ hòa bình đến/ Chờ tiếng bom im...”. Không ngờ, Trịnh Công Sơn phải chờ đến 30/4/1975 mới thấy được đất nước hòa bình thống nhất.

 

4. Kinh Việt Nam cầu những việc gì?

Kinh Việt Nam có 12 bài. Ngoài bài Chờ Nhìn Quê Hương Sáng Chói đã trích ở trên, 11 bài còn lại phục vụ cho cuộc đảo chính vận động hòa bình với các nội dung sau:

- Trước nhất anh mô tả cảnh dân tộc đắm chìm trong chiến tranh, dân ta sống rất đau khổ, bi đát.

Dân Ta Vẫn Sống: “Dân ta đã bao nhiêu năm/ Lòng chìm sâu ước mơ hân hoan/ Nhìn rừng phơi xác thân anh em/ Nhìn trái tim rơi theo đại bác/ Thịt người cho thú nhai ngon/ Mẹ cha tóc khô như rơm/ Chờ đàn con đã đi bao năm không về/ Đứa về cụt bàn chân…”.

- Anh tin tưởng cuộc đảo chính sẽ thành công và…

Ngày Mai Đây Bình Yên: “Ngày mai đây bình yên/ Vì mọi nơi đã lên mồ hoang/ Ngày mai đây nhìn quanh/ Lòng sẽ thấy xót xa vô cùng/ Mẹ già đi lom khom tìm trên bãi vắng/ Tìm mộ đứa con hôm nay không còn/ Để đón thanh bình…”.

- Anh tưởng tượng đến nỗi hân hoan trong đêm đảo chính vận động hòa bình.

Ta Thấy Gì Đêm Nay: “Cờ bay trăm ngọn cờ bay/ Rừng núi loan tin đến mọi miền/ Gió Hòa bình bay về muôn hướng/ Ngày vui con nước trôi nhanh/ Nhịp sống bao la xóa bỏ hận thù/ Gặp quê hương dau bão tố/ Giọt nước mắt vui hay lòng gỗ đá…”.

- Những đêm ấy thanh niên thắp đuốc đi từ thành phố ra vùng nông thôn, từ đồng bằng lên miền núi kêu gọi hòa bình.

Hành Ca: “Đoàn người đi vào trong đêm/ Đuổi bóng tối đi cho da vàng/ Bỏ hai mươi năm chiến chinh buồn xây thnah bình/ Đoàn người đi miên man/ Tìm ánh sáng cho Việt Nam”.

- Khi đã có hòa bình, thống nhất, nỗi mừng vui hạnh phúc tràn ngập ruộng đồng quê hương.

Cánh Đồng Hòa Bình: “Mặt trời yên vui lên đỏ chói/ Đỏ trái tim người/ Ngày Việt Nam đã qua cơn đau dài/ Triệu trái tim người/ Cùng nhịp vui với con tim nhân loại/ Ngày lên cùng niềm tin/ Bàn tay ta quyết lo vun trồng/ Hòa bình như lúa thơm nuôi dân mình/ Một sớm thanh bình/ Giọng cười em vút cao hơn bình minh”.

- Khung cảnh miền quê sau ngày đất nước hòa bình:

Đồng Dao Hòa Bình: “Hôm nay thấy mặt trời rực sáng/ Trong tim người trong tim ta trong tim anh/ Trong tim những ruộng đồng gội nắng/ Hai mười năm nhục nhằn đã qua/ Hôm nay thấy nụ cười rạng chói/ Trên môi người trên môi ta trên môi em/ Trên môi những mẹ già”…

- Tuy nhiên, trong nỗi mừng hòa bình bộc lộ nỗi đau đớn mất mát:

Sao Mắt Mẹ Chưa Vui: “Đêm nay hòa bình sao em nhỏ chưa vui/ Hãy bước ra đây nhìn phố ngập người/ Đêm nay hòa bình không nụ cười trên môi/ Nhìn quanh em không ai còn lại/ Không ai còn lại/ Ru đỡ tình người cho có đôi”…

- Anh kêu gọi hãy nén thương đau để hân hoan đón hòa bình, xây dựng lại tình thương, hàn gắn vết thương đau:

Đôi Mắt Nào Mở Ra: “Nhìn Việt Nam sống lại ngày đầu/ Đôi mắt nào mở ra cho nhau/ Nhìn hồn phai những vết thương đau/ Đôi mắt nào mở ra trông theo/ Từng niềm vui mặt người thấy lại/ Đô mắt nào mở ra hôm nay/ Nhìn rừng khô lên những mầm tươi”.

- Phải hành động cụ thể, không viển vông:

Hãy Đi Cùng Nhau: “Đến trước từng căn nhà/ Hỏi thăm từng anh lính/ Mới về từ rừng xa/ Em hãy đi cùng tôi/ Đến trước từng căn nhà/ Hỏi thăm từng người mẹ/ Hỏi thăm từng người cha/ Em nhớ đi cùng tôi/ Áo mới và mang quà/ Đùa vui cùng đàn bé/ Tay cầm lồng đèn hoa/ Em hãy đi cùng tôi/ Dưới bóng triệu lá cờ/ Hỏi thăm từng người chị/ Phố dài triệu người qua”.

- Cả dân tộc đoàn kết, hân hoan đất nước hòa bình, thống nhất, cùng nhau nắm tay xây dựng đất nước vinh quang.

Nối Vòng Tay Lớn: “Ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà/ Mặt đất bao la anh em ta về/ Gặp nhau mừng như bão cát quay cuồng trời rộng/ Bàn tay ta nắm/ Nối tròn một vòng Việt Nam”.

- Kêu gọi xây dựng lại đất nước sau khi hòa bình:

Dựng Lại Người, Dựng Lại Nhà: “Đi xây lại Việt Nam/ Bàn chân ta đi mau đi sâu vô tới rừng sâu/ Vác những cây rừng to/ Về nơi đây ta xây dựng nhà/ Dựng làng mới cho dân ta về/ Dựng nhà mới cho miền quê”.

 

* * *

 

Kinh Việt Nam được viết với sự gợi ý (cũng có thể xem là đặt hàng) của những người đảo chính vận động hòa bình. Tuy nhiên việc gợi ý đó phù hợp với khát vọng hòa bình của Trịnh Công Sơn nên anh hưởng ứng và thực hiện rất thành công. Bởi thế chính quyền VNCH sống bằng chiến tranh cũng như những người gắn bó với chính quyền ấy hiện nay đang định cư ở nước ngoài ít nhắc hoặc không muốn nhắc đến tập nhạc này.

Qua Kinh Việt Nam ta thấy Trịnh Công Sơn rất thực tế, các bài hát được soạn đúng theo trình tự trước, trong và sau cuộc đảo chính vận động hòa bình, nếu có. Âm điệu Kinh Việt Nam mạnh mẽ vui tươi trong sáng, không day dứt sâu lắng như Ca Khúc Da Vàng nhưng nó vẫn gắn kết với đời sống tâm linh vốn có trong âm nhạc Trịnh Công Sơn.

Tư tưởng hòa bình của Trịnh Công Sơn trong Kinh Việt Nam cũng như trong toàn bộ tác phẩm của anh không chỉ cho Việt Nam mà còn cho cả loài người, không chỉ có ý nghĩa trong thời gian xảy ra chiến tranh Việt-Mỹ mà còn có giá trị trong thế giới đầy bạo lực ngày nay.

Nếu không biết Trịnh Công Sơn đã từng khát khao hòa bình và muốn hành động để thống nhất đất nước như thế thì không thể giải thích được sự hồ hởi phấn khởi của Trịnh Công Sơn khi anh đến đài phát thanh Sài Gòn hát Nối Vòng Tay Lớn trưa ngày 30/4/1975 như mọi người thường nhắc đến.

Và cũng không thể hiểu được sau 30/4/1975, Trịnh Công Sơn đã đi vào thực tế cách mạng một cách say sưa và làm “nhạc đỏ” vẫn rất hay. Chỉ tiếc nhiều dự kiến của Trịnh Công Sơn sau 30/4/1975 không thực hiện được, nhiều bài trong tập nhạc không được “tụng”. Ngày nay yêu thích Kinh Việt Nam, không những hát Kinh Việt Nam mà nên chăng phải hành động, tiếp tục thực hiện những gì chưa thực hiện sau hơn ba mươi năm đất nước đã hòa bình thống nhất.

Bài viết này chỉ là một phát hiện ban đầu, rất mong những ai từng ở trong cuộc đang sống ở trong nước cũng như ở nước ngoài bổ sung cho những chỗ bất cập.

 

Gác Thọ Lộc, 6/2007.

 

BẢN CHỤP BÀI BÁO:

 

Bìa báo HỒN VIỆT, số 1, tháng 7/2007

 

Trang 26

 

Trang 27

 

Trang 28

 

Trang 29

 

 

--------------

Bài liên hệ:

07.05.2009
[CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI] ... Bách khoa Toàn thư của Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam ở Hà Nội đã giải thích chữ CHIÊU HỒI như sau... (...)
 
05.05.2009
[CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI] ... Xin được đóng góp một tài liệu liên hệ đến thời gian chiếc xe Jeep bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam... (...)
 
[ÂM NHẠC] ... Có lẽ Nguyễn Anh Thăng đã có sự lầm lẫn giữa hai chữ “chiêu hồi” và “Chương trình Chiêu hồi” nên mới cho rằng hai chữ này chỉ có sau 54. Tôi không chứng minh được hai chữ này chỉ có sau 54 nhưng Nguyễn Anh Thăng có thể chứng minh cho tôi thấy hai chữ này không có mặt trước cuộc chiến hai miền?... (...)
 
04.05.2009
[ÂM NHẠC] ... Dù sao mộng không thể là thực. Và người chết vẫn có thể nói dối như/hay nói láo thay... cho người sống... (...)
 
03.05.2009
[ÂM NHẠC] ... Lại tiếp tục chuyện dài TCS, “người đưa tin” xin được cống hiến hải nội chư quân tử vài dòng tư liệu. Phần bình phẩm thì mong được độc giả “chiếu cố”. Xin những vị có bài viết mà tôi dẫn ra ở đây làm sáng tỏ... (...)
[ÂM NHẠC] ... Hưởng ứng tác phẩm truyện cực ngắn của Nguyễn Tôn Hiệt, tôi xin kể lại giấc mơ của mình đêm qua: Tôi nằm mơ thấy một người đàn ông gầy gò, nhỏ bé đến trước mặt mình, hổn hển nói với tôi bằng một giọng miền Trung trọ trẹ những điều mà tôi không hiểu lắm... (...)
 
01.05.2009
[ÂM NHẠC] ... Nhạc sĩ X chứng kiến cảnh một bọn người có vũ trang ra sức đánh đập, bóc lột những người yếu đuối, vô tội. Ông ta đứng đó mà xem, rồi đem cây đàn ra, hát một bài “ca ngợi cái đẹp, gợi lên những tình cảm cao quí của con người”... Khi bọn vũ trang nghỉ tay, nhạc sĩ X cùng đi uống bia với họ... (...)
 
[ÂM NHẠC] ... Phải cám ơn Thời Gian! Thử tưởng tượng, những đòi hỏi của ông Hiệt xảy ra mấy chục năm về trước, và Nhạc Sĩ của chúng tôi trót dại nghe ông, hoá ra Việt Nam mất đứt đi một thiên tài! Ngẫm mà xem... (...)
 
[CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI] ... trang mạng: http://en.wikipedia.org/wiki/Chieu_Hoi xác định chữ Chiêu Hồi như sau: “The Chiêu Hồi Program [...] was an initiative by the South Vietnamese to encourage defection by the Viet Cong and their supporters to the side of the Government during the Vietnam War”. Như thế danh từ Chiêu Hồi chỉ được dùng sau năm 1954... (...)
 
30.04.2009
[ÂM NHẠC] ... Đối với người nghệ sĩ, với thiên chức nghệ thuật của mình, họ có thể bộc lộ tình người bằng cách dùng tác phẩm của mình để: 1. Phản đối cái ác, bênh vực những người bất hạnh, phản ánh hiện thực để giúp mọi người nâng cao nhận thức, từ đó cải tạo xã hội tốt đẹp hơn. 2. Ca ngợi cái đẹp, gợi lên những tình cảm cao quí của con người, khiến mọi người cư xử với nhau nhân ái hơn, gần gũi hơn... (...)
 
[CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI] ... Tôi đồ rằng vì các cụ là những người làm việc ở miền Nam ngày trước nên rất “kỵ” với những chữ mà tôi đã dùng (?) hay là vì các cụ nghĩ rằng không ai có quyền “xúc phạm” đến mình cho dù đó là một cuộc thảo luận... (...)
 
29.04.2009
[ÂM NHẠC] ... Nhân nghe Nguyễn Tôn Hiệt so sánh Thanh Tâm Tuyền và Trịnh Công Sơn, tôi nhớ lại câu chuyện nhà văn Nguyễn Đạt đã kể trong bài “Vĩnh Biệt Thanh Tâm Tuyền” trên Tiền Vệ... (...)
 
[ÂM NHẠC] ... Thần tượng ai, đánh giá thế nào là quyền riêng của mỗi người. Con người và tác phẩm của Trịnh Công Sơn đâu có xa lạ gì. Mỗi người không tự cảm nhận và đánh giá được hay sao mà phải nghe người khác xúi giục. Tôi biết rất nhiều người không thể nghe nổi một nửa nốt nhạc của Trịnh Công Sơn. Điều đó là chuyện hết sức thường tình... (...)
 
[CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI] ... Trịnh Công Sơn ở đâu trong đêm 30 Mậu Thân và những ngày kế tiếp trong buổi giao tranh? Tôi có thể góp ý ở trong giới hạn, kiểu “thấy sừng có nghĩa thấy trâu; thấy khói có nghĩa thấy lửa.” ... (...)
 
[CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI] ... Chuyện về Nhân Văn Giai Phẩm, khi còn ngồi ghế nhà trường tôi đã từng được nghe nói đến. Nhưng thú thật câu chuyện về đời tư Trần Dần: “yêu cô gái tiểu tư sản ở lại Miền Bắc là tan nát cả cuộc đời, đến nỗi phải cắt gân máu tay tự tử” như Bằng Phong đã viết thì cho đến giờ, qua internet, tôi mới được biết... (...)
 
[ÂM NHẠC] ... Sau bài góp ý của tôi với Nguyễn Tôn Hiệt, thay vì làm minh bạch những câu hỏi tôi đặt ra thì Nguyễn Tôn Hiệt lại phản hồi bằng những thông tin liên quan đến lý do tại sao Trịnh Công Sơn lại viết bài “Em còn nhớ hay em đã quên”... (...)
 
28.04.2009
[ÂM NHẠC] ... Hãy thẳng thắn xác định: Trong nghệ thuật, Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ có tài. Trong đời sống, Trịnh Công Sơn là một kẻ cũng hèn yếu, xu nịnh, ích kỷ và tầm thường như rất nhiều kẻ khác... (...)
 
27.04.2009
[ÂM NHẠC] ... Trong bối cảnh như vậy, anh đòi hỏi Trịnh Công Sơn, một nhạc sĩ nổi tiếng trong “chế độ cũ”, phải có thái độ phản kháng lại chính quyền ư? Anh muốn ông phải công khai xót thương những người phải bỏ xứ, bị lùa đi kinh tế mới, bị đói khổ, bất công ư?... (...)
 
[CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI] ... Tội nghiệp Nguyễn Austin, cả tháng nay, tả xung hữu đột, hết Da Màu tới Tiền Vệ chỉ để bảo vệ “tượng đài”. Tượng đài có khi ngàn năm, cũng có lúc gặp “sự cố” như ở Điện Biên mới đây... (...)
 
26.04.2009
[ÂM NHẠC] ... Sau khi “chân dép lốp bay vào vũ trụ” với phi thuyền Apollo [!], nhạc Việt Nam đã lên tới đỉnh điểm “thiên tài nhạc” Trịnh Công Sơn và... chấm hết... (...)
 
[ÂM NHẠC] ... Những tín đồ Ky tô giáo thường đưa ra luận cứ: nếu anh không chứng minh được Chúa của tôi không hiện hữu thì điều đó không có nghĩa là không có Chúa. Tôi bắt chước luận cứ này để góp ý với VVN: nếu anh không chứng minh được những sự kiện liên quan đến cái gọi là “huyền thoại Diễm Xưa” không có thật, thì điều này không có nghĩa là những điều đó là bịa đặt... (...)
 
25.04.2009
[ÂM NHẠC] ... Cái chết bi thảm của hai mươi cô gái Thanh niên Xung phong biến thành “những dòng chữ óng mượt”. Rồi “những dòng chữ óng mượt” ấy đã được Trịnh Công Sơn đem vào bài hát bằng “những sắp xếp tinh khôn”, với “những cân nhắc đong đưa xuôi chèo thuận lái”... (...)
 
[ÂM NHẠC] ... Tôi đọc đi đọc lại bài hát “Em còn nhớ hay em đã quên” của TCS nhiều lần để cố gắng hiểu được những điều mà Nguyễn Tôn Hiệt cũng như nhiều người khác đã phê phán; nào là: “Bài hát của ông đưa ra những hình ảnh hoàn toàn dối trá. Những hình ảnh lãng mạn thơ mộng đó là những hình ảnh của Sài Gòn trước 1975, chứ hoàn toàn không phải là của thành phố Hồ Chí Minh sau 1975”... (...)
 
24.04.2009
[VĂN HOÁ] ... Không, Nguyễn Đắc Xuân không ngây ngô chút nào khi lập luận một cách khiên cưỡng như vậy. Đúng ra, ông ta rất ác. Không chỉ ác mà còn thiếu lương thiện. Thiếu lương thiện vì xuyên tạc nội dung tấm ảnh một cách gán ghép và không trung thực... (...)
 
20.04.2009
[ÂM NHẠC] ... Bài hát “Em ở nông trường, em ra biên giới” của Trịnh Công Sơn, Giải Nhất cuộc thi “Những bài hát hay nhất sau 10 năm chiến tranh”, chính là đỉnh cao của nền văn nghệ tuyên truyền trước khi chính sách “đổi mới” ra đời. Từ năm 1986 trở đi, Trịnh Công Sơn bắt đầu được phép quay trở lại với cái mùi lãng đãng trước 1975, và ông ta có 15 năm còn lại để tô điểm cho cái hình ảnh một nhạc sĩ với tấm lòng đầy ắp tình người... (...)
 
[ÂM NHẠC] ... Tôi viết bài “Giải hoặc Trịnh Công Sơn [kỳ 1]” để vạch ra sự bịa đặt hay thổi phồng quá trớn của một huyền thoại về sự nghiệp âm nhạc của Trịnh Công Sơn: “Tháng 7 2004 Diễm Xưa trở thành nhạc phẩm Á Châu đầu tiên được viện đại học Kansai Gakuin đưa vào chương trình giáo dục của viện đại học trong bộ môn Văn Hoá và Âm Nhạc.”... (...)
 
17.04.2009
[CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI] ... Thông tin về bức thư của TCS gửi Joan Baez là thực. Theo tôi, những điều viết trong thư này cho thấy bản chất nông nổi, nhẹ dạ của một người nghệ sĩ. Kết tội TCS là đồng lõa với tội ác e rằng đó là một ngoa ngữ... (...)
 
[CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI] ... Nhân đọc bài viết “Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn — một thiên tài đồng loã với tội ác” của ông Đặng Văn Âu, xưng là một người bạn của Trịnh Công Sơn, tôi có chút thắc mắc. Xin ông Âu vui lòng giải đáp... (...)
 
[ÂM NHẠC] ... Dịch enka từ chữ Hán 演歌 thành “diễn ca” rồi bình luận theo từ đó e rằng tối nghĩa. Thực chất enka hiện đại là loại bài hát thể ballad, được phát triển từ sau Đệ Nhị Thế Chiến. Từ “enka” theo nghĩa hiện đại chỉ xuất hiện từ 1969... (...)
 
16.04.2009
[CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI] ... Mới đây họa sĩ Trịnh Cung – Nguyễn Văn Liễu – viết một bài có nhan đề “Trịnh Công Sơn và tham vọng chính trị” đăng trên trang mạng Da Màu, rồi sau đó có một số người viết “phản bác” về nội dung bài viết vừa nêu và chê bai nhân cách của tác giả Trịnh Cung, tôi bèn mạo muội tham gia để bày tỏ đôi chút cảm nghĩ cá nhân vể một thiên tài từng xem tôi là bạn... (...)
 
[ÂM NHẠC] ... Theo tự điển Tiếng Việt thì “mê hoặc” có nghĩa làm người ta lầm lẫn bằng các tà thuyết. Còn “giải hoặc” là phá bỏ những tà thuyết bằng cách dùng những sự kiện, lập luận có thực hoặc dựa trên logic của con người,... Như thế ,ta không thể giải hoặc bằng những nhận định cảm tính hoặc dựa trên những suy luận thiếu cơ sở vững chắc... (...)
 
14.04.2009
[ÂM NHẠC] ... Vậy bảo enka là “nhạc sến” thì sai – thực ra, nó tương đương với ca khúc tình cảm tân nhạc phổ thông của Việt Nam thời tiền chiến và của miền Nam trước 75, mà sau này bị gọi là “nhạc vàng”... (...)
 
[ÂM NHẠC] ... Vậy mà bây giờ ở Việt Nam lại nổi lên cái huyền thoại bài “Thiên thai” của Văn Cao bay vào vũ trụ! Oan cho Văn Cao, ông mất đi rồi thì mặc tình mà đám văn công bồi bút ra sức bơm ông lên để rêu rao cái đường lối “Chân dép lốp bay vào vũ trụ”!... (...)
 
13.04.2009
[ÂM NHẠC] ... Định tiếp tục giải hoặc Trịnh Công Sơn, nhưng lại thấy có mấy lời góp ý của ông Nguyễn Đình Đăng, nên tôi phải dành thì giờ để đáp lời. Trước hết, tôi xin cảm ơn ông Nguyễn Đình Đăng đã góp ý. Nhưng cũng xin nói ngay, những điều ông góp ý thì cũng chẳng cứu vớt gì được cái huyền thoại giả mà tôi đã phân tích trong “Giải hoặc Trịnh Công Sơn [kỳ 1]”... (...)
 
12.04.2009
[ÂM NHẠC] ... Bản dịch “Diễm xưa” ra tiếng Nhật là do người Nhật thực hiện. Đây chỉ là phổ lời Nhật cho phù hợp với nhạc chứ không phải là bản dịch nguyên văn. Lời Nhật này được Khánh Ly hát lần đầu tiên tại Nhật năm 1970 tại hội trợ Osaka. Sau đó bài hát được phát vào năm 1978 trong một TV drama của đài NHK... (...)
 
10.04.2009
[ÂM NHẠC] ... Những thứ huyền thoại này, một phần do chính Trịnh Công Sơn bịa ra, một phần do những người khác bịa ra vì những mục đích khác nhau. Tuy nhiên, chúng lại có tác dụng rất hữu hiệu đến tâm lý đám đông lười suy luận, và khi một chuyện bịa đặt được trang trọng lặp đi lặp lại trên các phương tiện thông tin đại chúng, thì “lộng giả thành chơn”, nó sẽ được đại chúng tin là hoàn toàn có thật... (...)

 


Các hoạ phẩm sử dụng trên trang này được sự cho phép của các hoạ sĩ đã tham gia trên trang Tiền Vệ

Bản quyền Tiền Vệ © 2002 - 2021